NGHIÊN CỨU

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Nghiên cứu

Thỏa thuận Xanh Châu Âu

10/08/2023

Mục tiêu của EU là tính trung lập về khí hậu vào năm 2050. Vì mục tiêu này, Luật Khí hậu được ban hành để đảm bảo rằng tất cả các chính sách của EU đều đóng góp vào mục tiêu trung lập về khí hậu. Luật đã được đưa ra vào tháng 7 năm 2021 bởi “Gói Fit for 55”. Số 55 tượng trưng cho mục tiêu giảm 55% lượng phát thải khí nhà kính (KNK) vào năm 2030. Gói này bao gồm các công cụ lập pháp để thực hiện mục tiêu này trong các lĩnh vực khí hậu, năng lượng, sử dụng đất, giao thông và thuế.

Vào năm 2019, Châu Âu đã tiến hành bàn thảo về Thỏa thuận Xanh Châu Âu (European Green Deal - EGD) nhằm hướng đến mục tiêu giảm thiểu sự phát thải KNK và hạn chế sử dụng tài nguyên thiên nhiên nhưng vẫn đảm bảo về mặt phát triển kinh tế.Thỏa thuận hướng đến tham vọng một môi trường không ô nhiễm (đảm bảo không có chất độc hại), năng lượng sạch và an toàn với giá thành phù hợp, bảo tồn và phục hồi các hệ sinh thái, hỗ trợ đa dạng sinh học, nâng cao nguồn vốn tự nhiên của EU, thúc đẩy các ngành công nghiệp phát triển trên cơ sở  một nền kinh tế sạch và bền vững, hệ thống sản xuất thực phẩm lành mạnh và thân thiện với môi trường, sử dụng hiệu quả và có trách nhiệm với các nguồn năng lượng, tài nguyên thiên nhiên... 

Thỏa thuận đặt mục tiêu lớn là đảm bảo sức khỏe và hạnh phúc của người dân khỏi những rủi ro và tác động liên quan đến môi trường, cải thiện phúc lợi của con người thông qua việc đạt được các mục tiêu cụ thể như: trở thành khu vực trung hòa phát thải (climate-neutral) vào năm 2050, thúc đẩy sự phát triển của các thị trường sản phẩm và dịch vụ xanh. Mặt khác, Thỏa thuận Xanh châu Âu hàm chứa chiến lược của EU nhằm đảm bảo khả năng tự chủ, ổn định thương mại, giảm sự phụ thuộc vào nguồn cung ứng dầu, khí, tài nguyên khoáng sản từ một số đối tác và thiết lập tiêu chuẩn cho các thị trường xanh có lợi cho doanh nghiệp châu Âu.

Thỏa thuận được phê duyệt vào năm 2020, là một bộ chính sách tái thiết lập cam kết của Ủy ban Châu Âu trong việc giải quyết các thách thức liên quan đến khí hậu và môi trường.

Vì một Châu Âu không có carbon (CO2), thỏa thuận Xanh Châu Âu có thể xem là một kế hoạch toàn diện. Một lộ trình với các hành động cắt giảm triệt để lượng phát thải KNK ít nhất là 55% vào năm 2030 (so với năm 1990) và biến cuộc khủng hoảng khí hậu thành bước tiến để phát triển bền vững hơn trong tương lai. Thỏa thuận đã có kế hoạch cho các khoản đầu tư cần thiết và các công cụ tài chính để đạt được mục tiêu trong quá trình chuyển đổi này.  

Để đạt được các mục tiêu về khí hậu, dự kiến phải chi tới 2% GDP của Châu Âu để “xanh hóa” nền kinh tế, bao gồm việc đầu tư cơ sở hạ tầng mới, mua sắm công, tái cơ cầu nền công nghiệp,... 

Thỏa thuận xanh châu Âu là một quá trình chính trị và lập pháp và vẫn chưa rõ nó sẽ dẫn đến những hành động và luật pháp cụ thể nào. Các sửa đổi đang diễn ra và một khung pháp lý mới sẽ được đề xuất vào năm 2023…Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp xuất khẩu, sẽ rất hữu ích nếu được làm quen dần để xác định các quy định có thể ảnh hưởng đến hoạt động của mình.

Thỏa thuận Xanh coi các sản phẩm bền vững là tiêu chuẩn ở EU. Nhiều ý tưởng về các quy định và chính sách với sản phẩm bền vững đang được xem xét, công bố và doanh nghiệp cần phải theo dõi để biết liệu chúng có ảnh hưởng đến doanh nghiệp của mình hay không và ảnh hưởng như thế nào.

Một loạt chính sách có tầm nhìn tới năm 2050 được ban hành có thể giúp EU trở thành một nền kinh tế xanh và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên. Các chính sách và biện pháp chính của thỏa thuận: là Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (Carbon Border Adjustment Mechanism - CBAM); Chiến lược từ Trang trại đến bàn ăn (Farm to Fork); Kế hoạch Hành động kinh tế tuần hoàn (Circular Economy Action Plan) hay Chiến lược đa dạng sinh học đến năm 2030.

Cơ chế điều chỉnh các-bon qua biên giới - bộ phận quan trọng nhất trong Thỏa thuận Xanh châu Âu đang trở thành mối quan tâm đặc biệt của các quốc gia và doanh nghiệp. Tháng 12/2022 vừa qua, EU thông báo thực hiện CBAM. Theo đó EU sẽ đánh thuế carbon đối với tất cả hàng hóa được nhập khẩu vào thị trường này, dựa trên cường độ phát thải khí nhà kính trong quy trình sản xuất ở nước sở tại. Theo đó, CBAM ban đầu sẽ áp dụng đối với các hàng hóa nhập khẩu có nguy cơ gây ô nhiễm cao như xi măng, thép, phân bón, nhôm, điện và hydro, là những lĩnh vực chiếm tới 94% lượng khí thải công nghiệp của châu Âu. Cơ chế sẽ được cong bố dần dần cho đến cuối năm 2025 và sau đó sẽ được áp dụng đầy đủ vào năm 2026. Với quy định này, các nhà nhập khẩu EU sẽ phải mua giấy chứng nhận, khai báo lượng khí thải có trong các sản phẩm nhập khẩu. Nếu họ có thể cung cấp thông tin đã được xác minh từ các nhà sản xuất bên ngoài EU rằng giá carbon đã được thanh toán trong quá trình sản xuất, thì giá này có thể được khấu trừ vào hóa đơn cuối cùng.

Số lượng Thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) quan tâm đến CBAM ngày càng gia tăng kể từ khi dự thảo về CBAM được công bố lần đầu vào cuối năm 2019. Các Thành viên WTO chỉ trích EU về việc xây dựng CBAM với ý nghĩa là một biện pháp thương mại đơn phương, mà chưa tính đến nguyên tắc “trách nhiệm chung nhưng khác biệt” trong Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu. Họ cũng chất vấn về tính phù hợp của CBAM với các nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN), đối xử quốc gia (NT), các điều khoản về thuế quan,phi thuế quan, ngoại trừ mục tiêu bảo vệ môi trường... trong Hiệp định GATT của WTO. Quan trọng hơn cả, các Thành viên đều thống nhất cho rằng khi đi vào thực hiện, CBAM sẽ tạo ra rào cản thương mại lớn với xuất khẩu từ các nước thứ ba vào khu vực thị trường chung EU, thông qua gia tăng phí tổn trực tiếp (phí mua tín chỉ) và gián tiếp (thủ tục hành chính phức tạp để tuân thủ quy định CBAM).

Tuy nhiên, có thể nói bất chấp sự chỉ trích, phản đối của nhiều nước, EU vẫn sẽ tiếp tục xây dựng CBAM theo đúng tiến trình. Ngày 22/6/2022, Nghị viện châu Âu đã thông qua với đa số phiếu gói văn bản pháp lý quy định về CBAM với một số điều chỉnh đáng chú ý. Các nội dung được xem là “tích cực” đối với các nước ngoài EU, đặc biệt là các nước Đang và Kém phát triển, là việc xác định lộ trình xóa bỏ tín chỉ carbon miễn phí trong nội bộ EU từ năm 2027, hoàn thành vào năm 2032 để đảm bảo hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính (ETS) trong và ngoài EU (CBAM) không mâu thuẫn lẫn nhau. Quy định sẽ sử dụng số tiền tương đương mức thu từ bán tín chỉ CBAM cho mục tiêu hỗ trợ các nước kém phát triển. Điểm gây quan ngại là CBAM sẽ tiếp tục mở rộng phạm vi ra các chủng loại sản phẩm khác, kể cả tính đến hàm lượng carbon phát thải gián tiếp trong đầu vào điện sản xuất, ngoài 5 nhóm sản phẩm ban đầu là sắt thép, sản phẩm lọc dầu, xi măng, hóa chất cơ bản và phân bón.

Tiêu chuẩn thực phẩm bền vững ở EU - Chiến lược Farm to Fork

EU muốn biến hệ thống thực phẩm của mình trở thành một tiêu chuẩn toàn cầu. Chiến lược từ Trang trại đến bàn ăn, bao trùm toàn bộ chuỗi thức ăn và sẽ giải quyết trách nhiệm của tất cả các bên liên quan. Khung pháp lý cho hệ thống thực phẩm bền vững sẽ được ban hành vào năm 2023. Các định nghĩa, nguyên tắc chung, yêu cầu, chứng nhận và kế hoạch ghi nhãn sẽ trở thành tiêu chuẩn cho tất cả các sản phẩm thực phẩm được đưa vào thị trường EU.Các hành động được triển khai có thể được liệt kê dưới đây:

- Về sản xuất lương thực: Giới thiệu về hấp thụ carbon cho nông dân; điều đó có nghĩa nông dân sẽ được thưởng cho các hoạt động loại bỏ carbon dioxide khỏi khí quyển; Thúc đẩy các giải pháp thay thế thuốc trừ sâu hóa học và ô nhiễm chất dinh dưỡng; Giảm doanh số bán thuốc kháng sinh cho động vật trong khung; Sửa đổi luật phúc lợi động vật; Tăng cường cảnh giác đối với thực vật nhập khẩu; Thúc đẩy hơn nữa canh tác hữu cơ và các kế hoạch sinh thái và tài trợ cho sinh thái nông nghiệp và nông lâm kết hợp; Hỗ trợ ngành nuôi trồng thủy sản và tảo. 

- Về chế biến thực phẩm: Bộ quy tắc ứng xử của EU về thực hành tiếp thị và kinh doanh có trách nhiệm đã được xây dựng; Yêu cầu lồng ghép tính bền vững vào chiến lược doanh nghiệp sẽ được cải thiện; Các giải pháp đóng gói bền vững sẽ được hỗ trợ; Các tiêu chuẩn tiếp thị sẽ được sửa đổi.

- Liên quan đến người tiêu dùng: Việc ghi nhãn dinh dưỡng bắt buộc trên bao bì sẽ trở thành chế tài và việc hài hòa các tuyên bố xanh tự nguyện sẽ được kiểm tra; Phương thức cung cấp thông tin cho người tiêu dùng, bao gồm cả việc áp dụng kỹ thuật số sẽ được thực thi; Liên quan đến thất thoát và lãng phí thực phẩm, các quy định của EU về 'sử dụng trước' và 'tốt nhất trước' sẽ được sửa đổi. 

Thực tế, hệ thống lương thực, thực phẩm của Châu Âu đang phụ thuộc vào chuỗi cung ứng toàn cầu (từ thức ăn chăn nuôi đến gia vị và trái cây nhiệt đới). Vì vậy, để đạt được các mục tiêu đã đề ra trong chiến lược “Từ trang trại đến bàn ăn”, chính sách thương mại của EU sẽ phải thúc đẩy hợp tác với các nước ngoài EU; đồng thời giảm thiểu tình trạng mất an ninh lương thực bằng cách tăng cường khả năng phục hồi của hệ thống lương thực, thực phẩm và giảm lãng phí thực phẩm. 

Các sản phẩm bền vững là tiêu chuẩn ở EU - Kế hoạch Hành động Kinh tế Tuần hoàn

Kế hoạch Hành động Kinh tế Tuần hoàn, được đưa ra vào năm 2020, nhằm mục đích biến các sản phẩm bền vững trở thành tiêu chuẩn ở EU. Một trong những đặc điểm quan trọng nhất của nó là “chính sách sản phẩm bền vững” sẽ dẫn đến khung pháp lý, theo đó tất cả các sản phẩm được sản xuất hoặc nhập khẩu vào EU đều đáp ứng các tiêu chuẩn bền vững. 

Thời gian đầu sẽ tập trung vào các lĩnh vực sử dụng nhiều tài nguyên, nơi có tiềm năng tuần hoàn cao, chẳng hạn như điện tử và công nghệ thông tin,pin, phương tiện, bao bì, nhựa, dệt may, xây dựng và các tòa nhà, thực phẩm, nước và chất dinh dưỡng. Đối với mỗi lĩnh vực, sẽ có luật cụ thể hoặc quy định hay chế tài để đảm bảo tính tuần hoàn.

Chiến lược đa dạng sinh học đến năm 2030

Chiến lược đa dạng sinh học đến năm 2030 là một kế hoạch dài hạn để bảo vệ thiên nhiên và đẩy lùi sự suy thoái của các hệ sinh thái. Kế hoạch khôi phục liên quan đến Chiến lược Farm to Fork và nông dân đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn đa dạng sinh học. Cả hai chiến lược đều nhằm mục đích thực hành bền vững, như canh tác hữu cơ, sinh thái nông nghiệp và nông lâm kết hợp. Một vấn đề khác là mục tiêu chung để giảm sử dụng thuốc trừ sâu hóa học, phục hồi đất và giảm thất thoát chất dinh dưỡng từ phân bón. Kế hoạch cũng bao gồm các cam kết về đánh bắt bền vững.

Việt Nam và tác động, ảnh hưởng của Thỏa thuận Xanh châu Âu

Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) đã ký kết và đưa vào thực hiện hiệp định thương mại tự do song phương (EVFTA) từ ngày 1/8/2020. Tuy nhiên, những lợi thế đạt được từ EVFTA có thể bị xói mòn phần nào bởi diễn biến hoạch định chính sách trong khu vực EU, nổi bật là Thỏa thuận Xanh châu Âu. Theo các chuyên gia, Thỏa thuận Xanh châu Âu có khả năng ảnh hưởng đến một số ngành công nghiệp của Việt Nam, tùy thuộc mỗi ngành và các biện pháp cụ thể được đưa ra theo thỏa thuận.

Những ngành có thể bị tác động, ảnh hưởng lớn bởi Thỏa thuận này là ngành dệt may và giày dép do EU là thị trường lớn xuất khẩu hàng dệt may và giày dép của Việt Nam. Thỏa thuận Xanh EU, cụ thể là Kế hoạch hành động nền kinh tế tuần hoàn, sẽ yêu cầu các sản phẩm dệt may phải được sản xuất bằng các vật liệu và quy trình thân thiện với môi trường, đồng thời đáp ứng các tiêu chuẩn bền vững và dán nhãn sinh thái nghiêm ngặt.Các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực này sẽ cần phải Xanh hóa (quy trình sản xuất và đầu tư vào công nghệ mới…) để duy trì tính cạnh tranh.

Ngành sắt thép cũng có khả năng bị tác động mạnh do Thỏa thuận Xanh đặt ra mục tiêu giảm sử dụng các vật liệu sử dụng nhiều năng lượng và chuyển sang sử dụng các vật liệu bền vững hơn.

Bao bì phải được làm bằng vật liệu thân thiện với môi trường và có thể tái chế hoàn toàn. Điều này sẽ tác động đến các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất bao bì cũng như các doanh nghiệp sử dụng bao bì cho các sản phẩm xuất khẩu.

Nông sản và thủy sản cũng là lĩnh vực bị ảnh hưởng bởi Thỏa thuận Xanh do EU đặt ra cách tiếp cận nông nghiệp bền vững và thân thiện với môi trường hơn. Các doanh nghiệp Việt Nam phải đáp ứng các tiêu chuẩn mới về thực hành canh tác và sản xuất lương thực bền vững, đồng thời đầu tư vào công nghệ mới và thay đổi quy trình sản xuất để giảm thiểu chất thải và giảm sử dụng hóa chất độc hại. Thỏa thuận cũng đề ra các yêu cầu , bao gồm tính đạo đức, an toàn thực phẩm và nhãn mác cho hàng hóa thủy sản.Trong năm 2021 vừa qua,Châu Âu đã xây dựng “Sáng kiến cải tiến khung pháp lý quản trị doanh nghiệp - Tích hợp tính bền vững vào các chiến lược phát triển”, tiếp tục ban hành “Sửa đổi chương trình chỉ dẫn địa lý của EU để giải quyết vấn nạn gian lận thực phẩm”... 

Ngay trong quý 2/2021, Châu Âu đã ban hành “Hướng dẫn của EU về Nuôi trồng thủy sản”, tiếp tục ban hành “Chiến lược của EU về tảo - Kinh tế sinh học xanh” vào Quý 2/2022 trong các vấn đề về sản xuất lương thực bền vững.

Mới đây, EU đã ban hành bản “Sửa đổi các tiêu chuẩn tiếp thị của EU đối với nông sản, thủy sản khai thác và nuôi trồng (nhằm đảm bảo cung cấp và tiêu thụ các sản phẩm bền vững). Trong hai năm tới dự kiến sẽ có rất nhiều quyết định được đưa ra và chắc chắn điều này sẽ ít nhiều gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh thủy sản. Điều quan trọng là phải tìm hiểu các mục tiêu của thỏa thuận trong mọi trường hợp để sẵn sàng tuân thủ, đáp ứng các tiêu chí ngày một cao. 

Nhìn chung, Thỏa thuận xanh của EU đặt ra khá nhiều thách thức nhưng đồng thời cũng tạo ra các cơ hội phát triển mới. Các doanh nghiệp cần nhận thức rõ những thay đổi mà Thỏa thuận sẽ mang lại và sẵn sàng thích ứng với những thách thức để duy trì khả năng cạnh tranh trên thị trường, chuẩn bị đón đầu các xu hướng mới để tạo ra các sản phẩm thân thiện với môi trường hơn để được hưởng lợi trong dài hạn.

Kế hoạch hành động của Việt Nam

(1). Về phía Nhà nước

Liên quan đến CBAM, để hài hòa với biện pháp của EU nhằm bảo vệ lợi ích xuất khẩu,cần nỗ lực thiết lập hệ thống theo Nghị định số 06/2022/NĐ-CP (Quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn) đúng lộ trình đã đề ra, đặc biệt là cho giai đoạn 2026-2030. Khẩn trương xây dựng chính sách giám sát và cấp chứng chỉ carbon cho các nhà sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam là rất cần thiết . Xây dựng quan hệ đối tác với các tổ chức quốc tế, chẳng hạn như Ủy ban châu Âu và khu vực tư nhân, để giúp các doanh nghiệp Việt Nam có được tài trợ nhằm chuẩn bị cho tác động của Thỏa thuận xanh châu Âu;

Việt Nam cần tăng cường đối thoại với EU qua kênh song phương để đảm bảo EU có cơ chế công nhận chi phí carbon có tính đến điều kiện cụ thể của từng quốc gia, đặc biệt của Việt Nam. Phối hợp với các Thành viên WTO tại kênh đa phương, nhiều bên.

Bên cạnh đó, theo dõi và đánh giá tác động của Thỏa thuận Xanh châu Âu đối với nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là các ngành dễ bị ảnh hưởng nhất và thực hiện mọi bước cần thiết để giải quyết mọi thách thức hoặc cơ hội phát sinh.

Hỗ trợ tài chính, kỹ thuật và đào tạo cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giúp họ áp dụng các thông lệ bền vững hơn và cải thiện khả năng cạnh tranh trên thị trường EU;

(2).Về phía doanh nghiệp, cần thực hiện các bước sau:

Nâng cao nhận thức về nỗ lực giảm phát thải carbon và xây dựng hệ thống hồ sơ liên quan cần tiếp tục cải thiện, để không bị động khi CBAM đi vào thực hiện đầy đủ từ năm 2027.Theo đó cần:

- Cập nhật thông tin về những diễn biến mới nhất trong Thỏa thuận Xanh châu Âu và bất kỳ quy định, chính sách, chiến lược hay kế hoạch mới nào nhằm thực hiện Thỏa thuận này;

- Tiến hành đánh giá tác động,xác định lĩnh vực nào có thể cần được cải thiện để đáp ứng các tiêu chuẩn bền vững mới;

- Áp dụng các biện pháp bền vững và thân thiện với môi trường hơn,tăng hiệu quả sử dụng năng lượng và sử dụng vật liệu tái chế, thực hiện các bước để giảm khí thải carbon trong quá trình sản xuất;

- Điều chỉnh chiến lược chuyển từ mô hình sản xuất và xuất khẩu chỉ tập trung vào sản lượng sang mô hình chú trọng tới yếu tố môi trường và phát triển bền vững, chuyển đổi số và áp dụng các công nghệ mới trong hoạt động sản xuất;

- Gia tăng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển để tạo ra các công nghệ và sản phẩm mới đáp ứng các tiêu chuẩn bền vững do Thỏa thuận xanh châu Âu đặt ra.

Vũ Huy Hùng

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT

BÀI VIẾT KHÁC