Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc chuyển dịch, từ nền năng lượng phi thương mại sang nền kinh tế tiếp cận các nguồn năng lượng thương mại, với các mức giá tiệm cận thế giới. Tiếp đó là chuyển từ năng lượng hóa thạch sang năng lượng mới và tái tạo để giảm phát thải. Ngoài ra còn chuyển từ nguồn tập trung sang phân tán, từ phụ thuộc vào nhập khẩu sang tự chủ… Tuy nhiên, để phục vụ cho cuộc chuyển dịch năng lượng hiện nay, cần tham khảo những bài học kinh nghiệm của các quốc gia có sự ảnh hưởng lớn đến chuyển dịch năng lượng của thế giới và xây dựng chiến lược, chính sách riêng để thích ứng với xu thế của thế giới trong bối cảnh mới.
1. Bài học kinh nghiệm của các quốc gia
1.1. Trung Quốc
Trong vòng 40 năm qua, Trung Quốc đã chuyển từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp sang nền kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất hàng hóa. Từ một nền kinh tế đang phát triển, Trung Quốc được đưa vào nhóm nền kinh tế đang chuyển tiếp và trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh này gắn với nhu cầu điện năng tại Trung Quốc tăng gấp nhiều lần trong vài thập kỷ qua. Theo chính sách bảo đảm an ninh năng lượng của Trung Quốc, có thể rút ra một số kinh nghiệm như sau:
+ Xây dựng và đưa ra những chính sách lớn trong trung và dài hạn, trong đó, chính sách năng lượng mới được coi như là một trong những ưu tiên quan trọng để bảo đảm sự phát triển kinh tế hiệu quả và bền vững.
+ Thực hiện chính sách tiết kiệm năng lượng bởi Trung Quốc là một trong những quốc gia sử dụng năng lượng kém hiệu quả nhất. Xây dựng các chính sách liên quan đến tiết kiệm năng lượng trung và dài hạn. Thông qua luật tiết kiệm năng lượng, xây dựng 46 tiêu chuẩn tương đương về tiêt kiệm năng lương.
Trung Quốc đã đóng cửa một số nhà máy nhiệt điện nhỏ và sản xuất thép, xi măng trong những năm 2008, 2009 với cơ sở sản xuất lạc hậu, thúc đẩy và phổ biến các công nghệ, thiết bị tiết kiệm năng lượng hiệu quả cao.
Trung Quốc đã ban hành hàng loạt văn bản, chính sách hỗ trợ tài chính cho hoạt động tiết kiệm năng lượng, cung cấp hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm hiệu quả cao, đồng thời cũng có các chính sách trợ giá thúc đẩy sản xuất các nhiên liệu tái sinh.
+ Chú trọng phát triển các nguồn năng lượng mới. Chính phủ Trung Quốc đã đề cao: Chiến lược năng lượng của Trung Quốc trong tương lai cần chuyển hướng đầu tư mạnh mẽ sang các dạng năng lượng tái tạo và năng lượng sạch (gồm thủy điện, năng lượng gió, điện mặt trời, năng lượng sinh học).
Định hướng đến năm 2050, năng lượng tái tạo sẽ trở thành nguồn cung cấp chính, chiếm 35-40% tổng năng lượng của Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc được đánh giá là nhà sản xuất năng lượng gió lớn thứ ba trên thế giới, bên cạnh khai thác gió trên đất liền, Trung Quốc cũng đã tập trung hỗ trợ triển khai các dự án phát triển năng lượng gió ngoài khơi.
Nhiên liệu sinh học cũng là nguồn năng lượng rất được quan tâm. Để cung cấp nhiên liệu cho các nhà máy chế biến nhiên liệu sinh học, Trung Quốc đã tăng cường nhập khẩu nông sản như sắn và mở rộng các vùng nguyên liệu mía, ngô… nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất nhiên liệu sinh học cồn ethanol và dầu diesel sinh học trong nước.
Các lĩnh vực sản xuất năng lượng nguyên tử, gió, mặt trời… được hưởng nhiều chính sách thuận lợi. Trung Quốc vẫn tiếp tục củng cố vị thế để trở thành cường quốc năng lượng sạch của thế giới.
1.2. Ấn Độ
Ấn Độ là nền kinh tế lớn thứ 7 trên thế giới. Ấn Độ có trình độ phát triển kinh tế thấp hơn nhiều so với Trung Quốc và được thúc đẩy bởi lĩnh vực dịch vụ. Ấn Độ là nước có ngành công nghệ thông tin quy mô lớn và là người khổng lồ về sản xuất phần mềm trên thế giới. Ấn Độ cũng có ngành công nghiệp ô tô quy mô lớn. Mặc dù có trữ lượng than và điều kiện phát triển các nguồn năng lượng, nhưng Ấn Độ lại đang là nước chịu chi phối bởi nguồn năng lượng nhập khẩu. Trước tình hình đó, Chính phủ Ấn Độ đã tiến hành rất nhiều biện pháp, chiến lược để cải thiện tình hình, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Một số các chính sách có thể được học hỏi như:
+ Xây dựng các chính sách thúc đẩy việc tăng cường đầu tư vào năng lượng tái tạo và mở rộng các nhà máy năng lượng mặt trời và nhà máy điện gió trên quy mô lớn.
+ Chiến lược cải thiện an ninh năng lượng được ưu tiên hàng đầu, đa dạng hóa các nguồn cung cấp và tăng dự trữ dầu chiến lược cho quốc gia. Ấn Độ đang hướng đầu tư vào các mỏ dầu ở Trung Đông, châu Phi và các quốc gia lân cận.
+ Tập trung cải thiện cơ sở hạ tầng mạng lưới điện liên bang và xuyên quốc gia. Ấn Độ tập trung tìm ra các giải pháp kỹ thuật, quản lý và kinh tế để hiện thực hóa việc truyền tải điện liên bang. Từ năm 2017, Ấn Độ đã bắt đầu trở thành nước xuất khẩu tịnh năng lượng với các đường dây kết nối xuyên quốc gia tới Nepal, Bangladesh và Myanmar.
+ Tăng cường sử dụng các nguồn khí đốt và tăng cường năng lượng tái tạo, giảm sử dụng các nhà máy điện than. Ấn Độ đã đầu tư nhiều hơn vào năng lượng mặt trời so với tất cả các nguồn năng lượng hóa thạch khác dùng trong sản xuất điện. Ấn Độ đã có các chính sách đặc thù để đảm bảo sự tích hợp tốt của năng lượng tái tạo vào hệ thống điện chung và đang nỗ lực tạo ra một thị trường bán buôn điện cạnh tranh, điều này rất quan trọng để cải thiện hoạt động của ngành điện ở Ấn Độ. Sáng kiến “Make in India” chính là nhằm thu hút các công ty sản xuất các tấm pin mặt trời, pin lithium và cơ sở hạ tầng sạc điện khác ở Ấn Độ.
1.3. Indonesia
Bộ Năng lượng và các tài nguyên khoáng sản Indonesia xác định rõ trong “Chính sách phát triển năng lượng tái tạo và bảo tồn năng lượng (Năng lượng xanh)” là để “cung cấp và sử dụng năng lượng một cách hiệu quả, sạch, tin cậy và đầy đủ trong bối cảnh phát triển bền vững”. Để hiện thực tầm nhìn đó, các chính sách mạnh mẽ đã được đặt ra cho Indonesia như:
+ Xây dựng các chiến lược như: Khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo thông qua sự hỗ trợ của xã hội; Phát triển năng lượng tái tạo ở phạm vi ưu tiên dựa trên tiềm năng sẵn có, công nghệ, tài chính và hiệu quả xã hội.
+ Để thực hiện các chiến lược phát triển năng lượng tái tạo, các chính sách hỗ trợ về đầu tư thông qua cơ chế khuyến khích về thuế, hỗ trợ vay vốn nhập công nghệ năng lượng tái tạo, phát triển nguồn nhân lực, cung cấp thông tin, tiêu chuẩn hoá sản phẩm, nghiên cứu phát triển và xây dựng thể chế.
+ Xây dựng các chương trình phát triển trong trung và dài hạn về đầu tư, tiêu chuẩn hoá thiết bị, xây dựng nguồn nhân lực, thông tin, nghiên cứu và phát triển. Liên kết và xác định vai trò của các bộ ngành trong việc thực hiện các chính sách, chương trình hành động.
2. Chính sách chuyển dịch năng lượng cho Việt Nam
2.1. Chuyển dịch năng lượng là tất yếu
Cũng như các nước Indonesia và Philipines, Việt Nam thuộc nhóm các nước tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới. Trong khi Nhật Bản và Hàn Quốc lại giảm tốc độ tăng trưởng, còn Thái Lan có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá phức tạp.
Khi nền kinh tế phát triển nhanh thì nhu cầu năng lượng cũng tăng lên. Một thách thức lớn đối với Việt Nam là phát triển đủ nguồn cung năng lượng để đáp ứng nhu cầu phát triển, đồng thời đảm bảo giải quyết các vấn đề ô nhiễm không khí nghiêm trọng đang xảy ra ở khắp châu Á.
Biến đổi khí hậu và thực trạng sử dụng năng lượng trên thế giới đã tạo ra sự dịch chuyển trên toàn cầu về triết lý phát triển, môi trường thể chế, quan điểm chính sách… dẫn tới những thay đổi đáng kể trong mọi lĩnh vực của đời sống và quy trình sản xuất của các nước, các lĩnh vực. Thêm nữa, nguồn nhiên liệu hoá thạch không được phân bố đồng đều trên Trái đất từ đó dẫn tới sự bất bình đẳng đối với các quốc gia nghèo tài nguyên trong việc tiếp cận tới nguồn nhiên liệu phục vụ cho phát triển. Phụ thuộc vào nguồn cung từ nước ngoài sẽ gây ảnh hưởng tới các vấn đề về kinh tế - xã hội ở trong nước.
Sự chuyển dịch này được lý giải, do hiện tượng nóng lên toàn cầu do ảnh hưởng của khí nhà kính với thành phần chủ yếu là CO2 (65%); 74,1% CO2 phát thải từ ngành năng lượng, trong đó bao gồm ngành điện, vận tải, sản xuất & xây dựng...
Hội nghị lần thứ 27 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP 27). Thông điệp của Việt Nam tại COP 27 là "Cam kết đi đôi với hành động" trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu. Tại COP 27, đoàn Việt Nam đã có nhiều hoạt động thiết thực và được cộng đồng quốc tế đánh giá là quốc gia tích cực và có trách nhiệm trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàn cầu.
Với sự vào cuộc quyết liệt của Chính phủ và của cả hệ thống chính trị, Việt Nam đã thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện cam kết COP 26, phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, cập nhật đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC), phê duyệt kế hoạch giảm phát thải khí methane, đồng thời cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm vụ để thực hiện các cam kết về khí hậu. Trong NDC 2022, Việt Nam đã nâng cam kết lên cao hơn phù hợp với lộ trình đưa phát thải ròng về "0" vào năm 2050.
2.2. Tiếp cận điện năng
Theo Báo cáo Doing Business 2020, chỉ số tiếp cận điện năng năm 2019 của Việt Nam xếp thứ hạng 27/190 nền kinh tế, hoàn thành trước 2 năm mục tiêu của Chính phủ là ngang bằng các nước ASEAN4 và góp phần tăng thứ bậc xếp hạng cải thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam. Trong các chỉ số về môi trường kinh doanh khác của Việt Nam, chỉ số tiếp cận điện năng trong nhóm 3 chỉ số tốt nhất trong 10 chỉ số đánh giá môi trường kinh doanh.
Đây là năm thứ 5 liên tiếp chỉ số Tiếp cận điện năng của Việt Nam được cải thiện về vị trí, là nền kinh tế có chỉ số Tiếp cận điện năng cải thiện vị trí nhiều nhất trong khu vực. So sánh Việt Nam với các quốc gia tham gia ký kết Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) cho thấy Chỉ số tiếp cận điện năng của Việt Nam đang ở nhóm 4 nước tốt nhất của các nước tham gia hiệp định CPTPP.
Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế về tiếp cận điện năng ở Việt Nam đặc biệt các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa do ít hoặc chưa được tiếp cận với lưới điện quốc gia. Và giải pháp phát triển các nguồn năng lượng tái tạo đang là xu hướng cho nhiều vùng hiện nay như điện mặt trời, năng lượng sinh khối, điện gió…
Trong những năm qua, ngành điện ở Việt Nam tập trung phát triển chủ yếu vào điện than khoảng hơn 40%, Thủy điện gần 30%, còn lại là các dạng năng lượng khác trong cơ cấu sản lượng điện quốc gia. Tuy nhiên, theo báo cáo nghiên cứu về các kịch bản phát triển nguồn điện tại Việt Nam của Green ID, Chính phủ Việt Nam đang chuẩn bị xây dựng Quy hoạch điện VIII, do đó cơ cấu nguồn điện có thể thay đổi để phù hợp với mục tiêu trong thỏa thuận Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP 27), cơ cấu công suất nguồn điện được đề xuất đến năm 2030 là: Than 24,4%, thủy điện 26,7%, năng lượng mặt trời 15,5%, khí tự nhiên 22,8%, gió 7,7%, sinh khối 1,9%, còn lại là từ các nhiên liệu khác và nhập khẩu.

Cơ cấu công suất nguồn điện được đề xuất đến năm 2030, Báo cáo nghiên cứu về các kịch bản phát triển nguồn điện tại Việt Nam của Green ID
2.3. Chuyển đổi chính sách năng lượng theo hướng bền vững hơn
Các tham vấn độc lập gần đây của các chuyên gia từ Trung tâm Stimson và Phòng Thương mại Hoa Kỳ tại TP.HCM (AMCHAM, 2015) đều chỉ ra rằng phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo là một chìa khóa chính sách đáng giá để giúp Việt Nam đảm bảo nguồn cung năng lượng bền vững. Tiềm năng đáng kể về năng lượng gió và mặt trời ở các vùng núi và ven biển của Việt Nam đã được đánh giá và ghi nhận thuộc nhóm dẫn đầu ở khu vực. Theo kết quả đánh giá của Chương trình năng lượng châu Á do Ngân hàng Thế giới (WB) thực hiện năm 2016, uớc tính tiềm năng gió của Việt Nam (trên độ cao 65 mét) đạt 513.360 MW, lớn hơn 200 lần công suất nhà máy thủy điện Sơn La và hơn 10 lần tổng công suất dự báo của ngành điện vào năm 2020. Tuy nhiên, hiện số lượng dự án “điện sạch” được triển khai là rất hạn chế, đáng kể nhất là các dự án điện gió ở Bình Thuận, Bạc Liêu và Cà Mau, điện mặt trời ở Ninh Thuận và Đắk Lắk. Tiềm năng gió ngoài khơi lớn hơn nhiều so với tiềm năng gió trên bờ do địa hình bờ biển dài và gió ngoài khơi thường có tốc độ cao, ổn định hơn. Hạ tầng cho điện gió ngoài khơi và lưới điện cũng ít bị hạn chế bởi vấn đề sử dụng đất. Trong khi đó, nhiều thách thức đã được chỉ ra cho thấy viễn cảnh đầy khó khăn cho phát triển nguồn năng lượng tái tạo ở Việt Nam.
Nhóm chuyên gia về tham vấn phát triển năng lượng AMCHAM cũng nhận xét rằng Chính phủ Việt Nam đã không ưu tiên thiết thực cho phát triển năng lượng sạch và bỏ lỡ làn sóng đầu tư năng lượng tái tạo từ Mỹ và châu Âu suốt một thập kỷ qua. Vì vậy, hệ quả là trong khi nhiều nước đã xây dựng được nền tảng cần thiết cho mô hình năng lượng sạch (cơ sở sản xuất, nhân lực lành nghề, chính sách…). Việt Nam vẫn loay hoay với nhiệt điện, lệ thuộc vào nó trong khi phải đau đầu xử lý các hệ lụy môi trường do nó gây ra. Hơn nữa, do xuất phát chậm hơn nên Việt Nam phải chấp nhận tốn kém nhiều hơn khi chưa làm chủ được công nghệ và vẫn phải nhập công nghệ và thiết bị. Điều này là hệ quả cho xuất phát điểm thụ động của Việt Nam và nó đòi hỏi phải có chiến lược “Made in Vietnam” trong công nghiệp năng lượng để thu hút các nhà đầu tư, nhất là từ Mỹ và châu Âu, đầu tư sản xuất tại Việt Nam để vừa tiêu thụ tại chỗ vừa xuất khẩu sang các nước Đông Nam Á lục địa như Lào, Campuchia, Thái Lan và Myanmar.
2.4. Đầu tư cho năng lượng tái tạo và tăng công suất
Báo cáo của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc cho thấy trong năm 2017, 63% khoản đầu tư cho năng lượng tái tạo trên toàn thế giới thuộc về các nước đang phát triển, tăng 9% so với năm 2016. Điều này là nỗ lực lớn của chính phủ các nước trong xu hướng sử dụng năng lượng xanh, chống biến đổi khí hậu. Việt Nam không đứng ngoài xu hướng này bằng việc có một loạt các dự án nhà máy điện gió, điện mặt trời được thi công và đi vào hoạt động trong năm 2018.
Theo mục tiêu của Chính phủ, điện mặt trời dự kiến sẽ trở thành nguồn năng lượng tái tạo chính trong tương lai, với công suất lắp đặt tăng từ 6 - 7 MW vào cuối năm 2017 lên 850 MW vào năm 2020, tương ứng 1,6% tổng sản lượng điện của cả nước. Con số này dự kiến sẽ tăng lên 12.000 MW vào năm 2030, tương ứng 3,3% tổng sản lượng điện của cả nước. Thống kê từ Bộ Công Thương cho biết, tổng quy mô các dự án điện mặt trời của cả nước đã và đang được xét duyệt hiện lên đến khoảng 19.000MW. Trong đó, khoảng 86 dự án với tổng công suất 3.000MW đã được chấp thuận đầu tư, dự kiến sẽ đưa vào vận hành trước tháng 6/2019.
Nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa và có hơn 3.000 km đường bờ biển bao quanh, Việt Nam cũng được ban tặng một nguồn tài nguyên dồi dào để phát triển điện gió. Tính đến tháng 10/2018, cả nước có 6 dự án đi vào hoạt động với tổng công suất gần 200 MW và khoảng 100 MW đang trong quá trình xây dựng sẽ được nối lưới vào năm 2018. Do vậy, điện gió còn rất nhiều tiềm năng chưa được phát triển. Theo Quy hoạch Phát triển Điện lực VII sửa đổi, Việt Nam đặt ra mục tiêu có 800 MW điện gió vào năm 2020 và 6.000 MW vào năm 2030.
Trong những năm gần đây, lĩnh vực năng lượng tái tạo tại Việt Nam đang nhận được sự quan tâm rất lớn, không chỉ của các nhà đầu tư trong nước mà còn cả nước ngoài. Ngày 17/5, 75 doanh nghiệp thành viên của Hội đồng Công nghiệp năng lượng Anh (EIC) đã tới khảo sát thị trường năng lượng Việt Nam hướng đến việc xây dựng chuỗi giá trị trong ngành năng lượng Việt Nam. Ông Stuart Broadley, CEO của (EIC) nhận định: "Việt Nam là nơi hoàn hảo để khởi đầu cho những nhà đầu tư muốn thiết lập kinh doanh ở khu vực màu mỡ này".
Superblock Pcl, công ty năng lượng mặt trời lớn nhất Thái Lan, cũng có kế hoạch đầu tư 1,76 tỷ USD để xây dựng các trang trại điện gió có tổng công suất 700MW ở Việt Nam. Trong giai đoạn đầu, Superblock Pcl dự kiến rót 651,84 triệu USD để xây dựng 3 nhà máy điện gần bờ tại 3 tỉnh phía Nam là Bạc Liêu, Sóc Trăng và Cà Mau, với công suất lần lượt là 142MW, 98MW và 100MW. Ông Jormsup Lochaya, Chủ tịch Superblock Pcl, cho biết các nhà máy này dự kiến sẽ bắt đầu vận hành vào năm 2020. Giai đoạn hai sẽ khởi công sau khi giai đoạn một kết thúc bằng việc lắp đặt thêm 360MW tại 3 tỉnh nói trên và sẽ khởi công sau khi giai đoạn một kết thúc.
Ở khu vực địa phương, đại diện lãnh đạo tỉnh Quảng Bình cùng với đại diện của AC Energy, Inc. và B&T Windfarm (Philippines) cũng đã ký kết biên bản ghi nhớ hợp tác đầu tư Trang trại điện gió B&T với công suất 352 MW tại tỉnh Quảng Bình với tổng mức đầu tư: 493 triệu USD, trong đó, giai đoạn 1 đầu tư công suất 252 MW, với tổng mức đầu tư là 353 triệu USD.
Với tiềm năng lý thuyết điện gió và điện mặt trời dồi dào trên cả nước, cộng với sự phát triển của công nghệ, cũng như chính sách khuyến khích đầu tư vào năng lượng tái tạo của Chính phủ, Việt Nam kỳ vọng sẽ ngày càng có nhiều các dự án điện gió, điện mặt trời trên khắp cả nước.
2.5. Thực thi cam kết COP26 về biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu là vấn đề sống còn, đòi hỏi sự quyết tâm và nỗ lực của tất cả các quốc gia trên thế giới trong cuộc chiến ứng phó với biến đổi khí hậu. Mỗi quốc gia có điều kiện địa lý, kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau nên có những cách thức khác nhau để ứng phó với biến đổi khí hậu. Nếu không thống nhất được cách thức giải quyết thì sẽ không thể nào tạo ra sức mạnh tổng hợp.
Tại COP26 tổ chức tại Glasgow vào tháng 11/2021, các quốc gia tham dự đã thống nhất quan điểm: Thế giới đang đối mặt với thập kỷ quan trọng, đòi hỏi có những hành động thiết thực và thực hiện các cam kết đã đưa ra. Sau những cam kết từ COP26, COP27 được coi là Hội nghị của hành động. Sau COP26, hơn 90% nền kinh tế toàn cầu đã đưa ra cam kết đạt phát thải ròng bằng ‘0’. Mặc dù các quốc gia đã có những hành động cụ thể và có những kết quả nhất định nhưng việc thực hiện cam kết huy động 100 tỷ USD mỗi năm vẫn chưa đạt được.
Tại COP26, Việt Nam là một trong những quốc gia đưa ra các cam kết mạnh mẽ đưa phát thải ròng về "0" vào năm 2050; không xây mới điện than từ năm 2030 và loại bỏ dần điện than từ năm 2040; tuyên bố về rừng và sử dụng đất; tham gia Liên minh thích ứng toàn cầu; giảm 30% khí thải metan vào năm 2030 so với mức năm 2020.
Hội nghị lần thứ 27 các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (COP27) diễn ra tại Ai Cập trong hai ngày 7 - 8/11/2022 với thông điệp xuyên suốt: "Cùng nhau hành động", nhấn mạnh các ưu tiên của năm 2022 là cần hành động, chuyển đổi các cam kết, các tuyên bố thành những kết quả và hành động cụ thể.
Ngay sau khi Hội nghị kết thúc, Thủ tướng Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo và thành lập ngay Ban Chỉ đạo quốc gia triển khai thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP26; ban hành Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo. Bộ trưởng Bộ TN&MT đã thành lập Tổ công tác giúp việc Ban Chỉ đạo cùng với quy chế làm việc của Tổ công tác.
Chính phủ Việt Nam đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030; Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050, đồng thời, đưa ra một lộ trình tổng thể nhằm hiện thực hóa các mục tiêu khí hậu đã cam kết bằng việc tạo hành lang pháp lý, thúc đẩy và hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp, các ngành, các địa phương cùng có trách nhiệm giảm phát thải ròng…Qua hội nghị COP27, Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) nhấn mạnh việc triển khai tập trung vào 3 nội dung quan trọng. Thứ nhất, chuyển đổi từ giai đoạn đàm phán sang giai đoạn triển khai, tận dụng các cơ chế tài chính hiện có để hỗ trợ triển khai Thỏa thuận Paris. Thứ hai, tiếp tục tập trung vào các hợp phần quan trọng: Giảm nhẹ, thích ứng, tài chính, tổn thất và thiệt hại. Thứ ba, tăng cường tính minh bạch, trách nhiệm của các Bên trong quá trình triển khai.
Để triển khai hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp hướng tới thực hiện các cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang hoàn thiện Dự thảo “Hoàn thiện dự thảo Đề án triển khai thỏa thuận tại COP 26” bám sát các quan điểm: Xây dựng và triển khai các nhiệm vụ, dự án khả thi, mang tính hiện thực và hành động để tận dụng các cơ hội tiếp cận công nghệ tiên tiến, dòng vốn xanh cho phát triển, phục hồi kinh tế, chuyển đổi năng lượng thực hiện mục tiêu cam kết tại Hội nghị COP26, bám sát các nội dung Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050.
Kết hợp hài hòa, hợp lý, hiệu quả giữa chuyển đổi xanh với chuyển đổi số và các chuyển đổi khác; truyền tải được mục tiêu chuyển đổi xanh tới các Bộ, ngành, địa phương và người dân. Đồng thời, tận dụng, tranh thủ tốt nhất những cơ hội hợp tác từ xu thế chung của toàn cầu và dựa trên lợi thế của Việt Nam (năng lượng tái tạo, khả năng đổi mới sáng tạo…), huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, nguồn lực trong nước và ngoài nước, nguồn lực nhà nước và tư nhân thực hiện các mục tiêu cam kết tại Hội nghị COP26.
Dự thảo Đề án đã đưa ra 9 nhiệm vụ và giải pháp, bao gồm: Đổi mới thể chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; Chuyển đổi năng lượng và công nghiệp; Lĩnh vực giao thông và xây dựng; Nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất; Tài nguyên và môi trường; Thích ứng với biến đổi khí hậu; Nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo, tăng cường năng lực, nâng cao nhận thức; An sinh xã hội, chuyển đổi công bằng; Ngoại giao khí hậu. Mỗi nhiệm vụ có nhóm nhiệm vụ trọng tâm cụ thể, giao các Bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện trong giai đoạn từ nay đến năm 2050.
2.6. Năng lượng tái tạo và việc làm
Năng lượng tái tạo giúp đẩy mạnh kinh tế các vùng nông thôn và khu vực kém phát triển ở nhiều quốc gia từ Đức cho tới Ấn Độ, Trung Quốc và Băng-la-đét… Việt Nam không ngoại lệ và năng lượng tái tạo sẽ đóng vai trò quan trọng trong phát triển nông thôn Việt Nam, năng lượng tái tạo góp phần tạo thêm nguồn thu nhập cho nông dân và hiện đại hóa phương pháp sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh lợi ích kinh tế cho vùng nông thôn, năng lượng tái tạo còn là nguồn năng lượng nội địa có thể giúp Việt Nam chủ động hơn về nguồn cung năng lượng và giảm sự phụ thuộc vào sự biến động của giá dầu, than và khí gas trên thị trường quốc tế. Năng lượng tái tạo giúp giảm chi tiêu cho nhập khẩu về dài hạn và tăng thêm lợi thế cho nền kinh tế cũng như giảm phát thải cho Việt Nam
Cơ quan Năng lượng tái tạo quốc tế (IRENA) có trụ sở tại Abu Dhabi (Các Tiểu vương quốc Arập thống nhất), trong Báo cáo thường niên năm 2017 Năng lượng Tái tạo và việc làm cho biết, cách đây 5 năm lĩnh vực này chỉ tạo được 5 triệu việc làm. Đến năm 2016, NLTT thế giới tạo việc làm cho 9,8 triệu người, gần gấp đôi mức của năm 2012. IRENA dự đoán số người làm việc trong lĩnh vực NLTT sẽ lên tới 24 triệu tới năm 2030 và đây sẽ trở thành động lực chính cho các nền kinh tế trên khắp thế giới.
NLTT cũng tạo ra triển vọng việc làm lớn tại Việt Nam. Chia sẻ tại Tuần lễ Năng lượng tái tạo Việt Nam 2017 diễn ra hồi tháng 8/2017, GS.TS Nguyễn Thế Mịch – Đại học Bách khoa Hà Nội cho biết, theo Kịch bản Phát triển năng lượng bền vững tối ưu (ASES), ngành NLTT của Việt Nam có thể tạo ra 700.000 việc làm mới liên quan đến lĩnh vực này trong thời gian tới.
Một ví dụ điển hình, theo ông Chung - Han Wu, Giám đốc công nghệ của công ty Boviet - một công ty sản xuất pin mặt trời có trụ sở tại Bắc Giang, số lượng việc làm trong ngành năng lượng mặt trời chiếm đa số trong số các ngành NLTT. “Để thiết kế theo đặc thù và bố trí các nhà máy năng lượng mặt trời tại Việt Nam hiện nay, có khoảng 1.300 công nhân cần cho nhà máy sản xuất dàn pin năng lượng mặt trời 1 GW và khoảng 900 công nhân cần cho nhà máy sản xuất tấm pin năng lượng mặt trời 1 GW. Năm 2020, việc lắp đặt hàng năm hệ thống năng lượng mặt trời ở Việt Nam sẽ tăng lên 850 MW, có nghĩa là khoảng 15.000 người trên cả nước sẽ làm việc về lắp đặt hệ thống năng lượng mặt trời”.
3. Những hạn chế trong chuyển dịch năng lượng ở Việt Nam
Quá trình Chuyển dịch năng lượng tại Việt Nam bao gồm phát triển năng lượng tái tạo, nâng cao hiệu quả năng lượng và tiết kiệm năng lượng, và giảm tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch (ví dụ thông qua điện khí hoá ngành giao thông vận tải và dần xóa bò các nhà máy nhiệt điện than). Nhiều nghiên cứu khác nhau đã xác định các rào cản chính đối vối quá trình chuyển dịch cơ cấu năng lượng tại Việt Nam, cũng như các bên liên quan chính. Những rào cản và cơ hội đối với chuyển dịch cơ cấu năng lượng đảm bảo công bằng xã hội chủ yếu nằm ở việc sàn xuất và sử dụng điện tái tạo ở các quy mô khác nhau. Các rào cản có thể được chia về các nhóm chính sau: thể chế và chính sách; kinh tế và tài chính; kỹ thuật và cơ sở vật chất và rào cản về quan điểm/nhận thức.
a, Thể chế, chính sách và quy định
Chính sách và quy định về năng lượng tái tạo không đầy đủ và chưa hiệu quả
Quy trình đầu tư phức tạp đối với năng lượng tái tạo.
Khó khăn trong việc đấu nối lưới điện quốc gia
Các thể chế còn mâu thuẫn về lợi ích
b, Kinh tế và tài chính
Giá điện thấp, thiếu áp lực đầu tư hiệu quả năng lượng
Giá bán điện hỗ trợ của các loại năng lượng tái tạo thấp
Hạn chế về vốn đầu tư
c, Nhân lực và điều kiện cơ sở vật chất
Nhân lực ngành năng lượng tái tạo ở Việt Nam còn thiếu
Cơ sở hạ tầng vẫn còn thiếu, công nghệ chưa phát triển
d, Nhận thức
Các quan điểm tiêu cực về năng lượng tái tạo vẫn còn
Những lợi ích của năng lượng tái tạo vẫn chưa được nhìn nhận đúng mức.
Những thách thức trong việc thay đổi quan điểm
Đề xuất khuyến nghị cho chuyển dịch năng lượng của Việt Nam thời gian tới
Khung chính sách tích hợp - Các nhà hoạch định chính sách cần ưu tiên xây dựng khung chính sách tích hợp tạo ra tầm nhìn xuyên suốt dài hạn và môi trường chính sách ổn định, mang lại sự chắc chắn để thu hút đầu tư.
Định giá carbon - Việc định giá carbon nên được thực hiện nhanh nhất có thể - các cơ quan trung ương nên hướng dẫn nhiệm vụ này, trong trường hợp vắng mặt, các cơ quan địa phương áp dụng các chương trình riêng của họ.
Trợ cấp thông minh - Điều quan trọng là các nhà hoạch định chính sách xem xét danh mục trợ cấp hiện tại của họ để loại bỏ trợ cấp nhiên liệu hóa thạch và chuyển hướng sang các quỹ có các chương trình về hiệu quả năng lượng và hướng đến các mục tiêu công nghệ sạch.
Hỗ trợ đổi mới sáng tạo - Chính sách tiếp tục cần được thiết kế để đảm bảo cả lĩnh vực công và tư đều tiến tới đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, hỗ trợ các mục tiêu chuyển đổi năng lượng và các nhà hoạch định chính sách nên đảm bảo cung cấp các chương trình và hỗ trợ cần thiết.
Hiệu quả năng lượng - Hiệu quả năng lượng tiếp tục là lựa chọn năng lượng hiệu quả chi phí nhất, và các nhà hoạch định chính sách nên loại bỏ những rào cản trong việc thông qua, bao gồm cả việc cung cấp các cơ chế tài chính phù hợp.
Thiết kế thị trường điện - Để hỗ trợ phát triển nhanh hệ thống điện, các nhà hoạch định chính sách phải chủ động hỗ trợ việc thiết kế thị trường điện theo các các quy tắc và tạo ra những sản phẩm cần thiết để vận hành hiệu quả các hệ thống năng lượng tái tạo.
Kết luận
Việt Nam đang đứng trước thách thức về nguy cơ thiếu hụt năng lượng trong vòng một thập kỷ tới, do đó cần có những giải pháp kịp thời để bảo đảm an ninh năng lượng. Trong giai đoạn 2005 - 2030, nhu cầu năng lượng của Việt Nam sẽ tăng 4 lần, nhu cầu điện của Việt nam tăng 10%/năm đến năm 2025. Mặc dù có trữ lượng than, khí và dầu mỏ lớn, Việt Nam đã trở thành quốc gia nhập khẩu thuần nhiên liệu hoá thạch. Theo Quy hoạch điện VII (điều chỉnh), các chuyên gia dự báo điện than sẽ chiếm hơn một nửa lượng điện vào năm 2030 (và một nửa lượng than sử dụng là than nhập khẩu).
Chuyển dịch cơ cấu năng lượng hiện nay là xu hướng chung của thế giới, điều này có thể đảm bảo công bằng xã hội, vì có thể nâng cao chất lượng dịch vụ năng lượng, tạo công ăn việc làm, hiện đại hoá ngành công nghiệp, tăng hiệu quả kinh tế và tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng môi trường, giúp giảm nhẹ biến đổi khí hậu.
Theo Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo, đến năm 2050, lượng điện tái tạo và thuỷ điện lớn sẽ chỉ chiếm hơn 40% trong cơ cấu điện. Các dự báo này dựa trên giả định nhu cầu sẽ tăng cao và nâng cao hiệu suất chậm, cũng như lạc quan về tiềm năng tăng trưởng của thuỷ điện. Bộ Công Thương hiện đang lên dự thảo Kế hoạch hành động năng lượng tái tạo, kế hoạch này phải hiện thực hoá các cam kết trong Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo - như áp dụng phí các bon đối với sử dụng nhiên liệu hoá thạch, và nguồn thu sẽ đưa về Quỹ năng lượng tái tạo
Việt Nam đã có một số chính sách hỗ trợ điện gió, sinh khối, phát điện từ chất thải và điện mặt trời (PV), tuy nhiên tỉ lệ khai thác vẫn rất thấp và quy mô của các dự án rất nhỏ. Một phần là do giá điện hỗ trợ (FiT) còn thấp và quy định hành chính và kỹ thuật chi tiết vẫn còn thiếu, hoặc yếu. Một số chương trình và trợ giá của chính phủ tạo điều kiện cho việc nâng cao hiệu quả năng lượng. Hệ thống nhiệt và sấy sử dụng năng lượng mặt trời, nguyên liệu sinh khối đã, đang được ứng dụng ở các hộ gia đình và trong các ngành công nghiệp...
Việt Nam có thể tự hào với các thành tựu như tỷ lệ hộ gia đình tiếp cận với điện cao, nhưng vẫn còn đi sau nhiều quốc gia khác về hiệu quả năng lượng và khai thác năng lượng tái tạo phi thuỷ điện. Các cơ sở sản xuất điện, giao thông vận tải, các ngành sản xuất, các toà nhà thương mại và khu nhà ở đang mở rộng nhanh chóng, mang lại cơ hội cho một tương lai các bon thấp.
Từ những nghiên cứu quá trình chuyển dịch năng lượng trên thế giới và xu hướng của Việt Nam, bài viết đã khuyến nghị một số chính sách về chuyển dịch hệ thống năng lượng tại Việt Nam trong thời gian tới. Hy vọng với những khuyến nghị này, các nhà hoạch định chính sách cũng như doanh nghiệp và các đối tượng chịu ảnh hướng có thể có một kênh tham khảo hữu hiệu trong việc cân đối hài hòa giữa những lợi ích và thiệt hại, từ đó đưa ra được những biện pháp sử dụng năng lượng hiệu quả, tiết kiệm./.
Lê Anh Tú
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT