Nằm trên trục giao thông quan trọng xuyên Bắc - Nam, trên địa bàn tỉnh có Quốc lộ 1A và đường sắt Bắc - Nam chạy qua với chiều dài gần 50km và các tuyến đường giao thông quan trọng khác. Hơn 200km đường thủy có luồng lạch đi lại thuận tiện và hàng nghìn km đường giao thông nông thôn tạo thành một mạng lưới giao thông khép kín, tạo điều kiện về đi lại và vận chuyển hàng hóa cho các phương tiện cơ giới. Với vị trí chiến lược quan trọng cùng hệ thống giao thông thủy, bộ, sắt tạo cho Hà Nam lợi thế rất lớn trong việc phát triển kinh tế - xã hội và đặc biệt là phát triển công nghiệp của tỉnh.
Trong giai đoạn 2016 - 2020, hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh đạt mức tăng trưởng cao qua các năm, trọng tâm là các ngành công nghiệp hỗ trợ, chế biến, chế tạo, tạo nền tảng vững chắc để phát triển công nghiệp.
Năm 2020, giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) theo giá so sánh năm 2010, ước đạt 122.618 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016 - 2020 ước đạt 15,5%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tăng dần về tỷ trọng giá trị gia tăng ngành công nghiệp - xây dựng: năm 2015 tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng chiếm 59,7%; đến năm 2020 ước đạt 63%. Công nghiệp hỗ trợ, năm 2020 về giá trị ước đạt 30.416 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 25,2% GTSXCN toàn tỉnh. Công nghiệp chế biến (không bao gồm chế biến đá, sản xuất xi măng, thức ăn chăn nuôi) ước đạt 18.460 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 17,5% GTSXCN toàn tỉnh. Công nghiệp chế tạo, lắp ráp GTSXCN năm 2020 ước đạt 21.445 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 18,6% GTSXCN toàn tỉnh. Giá trị sản xuất công nghiệp trong các khu công nghiệp (KCN) năm 2020 ước đạt trên 90.000 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 74,3% giá trị SXCN toàn tỉnh, tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016 - 2020 ước đạt 24,7%/năm. Các sản phẩm thuộc lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, chế biến, chế tạo, lắp ráp vẫn giữ được mức tăng trưởng khá giai đoạn 2016 - 2020 như: thiết bị điện, điện tử tăng bình quân 26%; nước giải khát tăng 7,2%; bộ dây điện ô tô tăng 11,6%; xe gắn máy tăng 13,9% ...
Thu hút đầu tư đạt được kết quả cao cả về số lượng dự án và tổng mức đầu tư đặc biệt và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Tổng số dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh Hà Nam tính đến tháng 12 năm 2019 có 950 dự án đầu tư còn hiệu lực (288 dự án FDI và 662 dự án trong nước) với vốn đăng ký 3.559,2 triệu USD và 116.924,3 tỷ đồng.
Các khu công nghiệp, cụm công nghiệp (CCN) tiếp tục được đầu tư, chuẩn bị sẵn sàng quỹ đất để thu hút đầu tư. Từng bước hoàn thiện các cơ sở hạ tầng về xử lý nước thải; bảo dưỡng, nâng cấp đường giao thông... đến nay đã 07/08 KCN theo quy hoạch đã được triển khai đầu tư cơ sở hạ tầng cơ bản đồng bộ trên diện tích 1.632,56 ha; trong đó diện tích đất công nghiệp là 1.157,13 ha. 17 CCN với tổng diện tích 280 ha đã cho thuê trên 250 ha.
Các dịch vụ về hạ tầng giao thông, cung cấp điện, nước sạch, thoát nước mưa, xử lý nước thải, hệ thống dịch vụ viễn thông, liên lạc, dịch vụ bảo vệ... cơ bản đồng bộ và đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt, nội dung về cung cấp điện ổn định là một trong 10 cam kết của tỉnh với nhà đầu tư được đẩy mạnh thực hiện.
Môi trường thu hút đầu tư ngày càng được cải thiện, công tác thu hút đầu tư tiếp tục được duy trì và phát triển, đặc biệt là đầu tư nước ngoài có nhiều khởi sắc. Các dự án thu hút mới vào trong KCN đảm bảo phù hợp với định hướng thu hút đầu tư của tỉnh. Tỷ suất đầu tư của các dự án trong KCN khá cao đạt 4,6 triệu USD/ha.
Bên cạnh những kết quả đạt được, ngành công nghiệp của tỉnh vẫn còn những tồn tại và hạn chế:
Tuy đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao nhưng nhìn chung các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh chủ yếu quy mô là vừa và nhỏ, năng lực tài chính, quản trị doanh nghiệp còn hạn chế. Số lượng các dự án đầu tư thu hút được trong thời gian qua khá cao, tuy nhiên chưa có nhiều dự án sản xuất sản phẩm công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn.
Chất lượng cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp trong KCN chưa đảm bảo theo yêu cầu như: đôi khi vẫn xảy ra tình trạng mất điện, điện áp không ổn định tại một số KCN, chất lượng nước sạch chưa đáp ứng nhu cầu. Hạ tầng xã hội như nhà ở công nhân, nhà trẻ, dịch vụ thương mại chưa đáp ứng nhu cầu của công nhân lao động tại các KCN; các dịch vụ cho chuyên gia nước ngoài còn hạn chế.
Còn thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao cung ứng cho các doanh nghiệp vẫn còn tình trạng ô nhiễm, ngập úng cục bộ trong và ngoài KCN. Tình hình khiếu nại, kiến nghị phản ánh của nhân dân liên quan đến công tác bảo vệ môi trường mặc dù không có nhiều nhưng vẫn xảy ra.
Việc hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển còn gặp khó khăn.
Tiến độ thực hiện dự án của một số doanh nghiệp còn chậm so với cam kết.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của một số dự án đầu tư chưa cao, mức đóng góp ngân sách còn thấp. Chưa tạo được mối liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài trong công nghiệp hỗ trợ, chế biến, chế tạo dẫn đến khó khăn trong thu hút đầu tư, tiêu thụ sản phẩm. Tất cả những tồn tại, hạn chế trên đều bắt nguồn từ một số nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Về nguyên nhân khách quan: Lợi thế địa lý, hạ tầng, nguồn nguyên liệu... của tỉnh thấp hơn so với một số tỉnh trong khu vực, nên hoạt động thu hút đầu tư còn gặp khó khăn; nguồn lực đầu tư cho các cơ sở giáo dục, y tế còn hạn chế, chưa có nhiều chính sách hỗ trợ đủ mạnh để thu hút nhà đầu tư tham gia phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục, y tế tại các KCN; chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, dịch bệnh, thiên tai... dẫn đến hàng loạt các khó khăn cho việc sản xuất kinh doanh như: nguyên liệu đầu vào khan hiếm và giá cao, thị trường đầu ra bị hạn chế, cạnh tranh giữa các nhà sản xuất ngày càng cao,... mức thu nhập, điều kiện sống của người lao động khu vực Hà Nam còn thấp hơn so với các tỉnh lân cận gây khó khăn cho việc thu hút lao động trình độ cao của các doanh nghiệp.
Về nguyên nhân chủ quan: Một số công trình điện đang trong quá trình đầu tư xây dựng; một số doanh nghiệp chưa thường xuyên thực hiện thí nghiệm bảo dưỡng định kỳ, lắp máy đóng cắt tự động tại vị trí đấu nối với lưới điện chung. Việc thu hút các nguồn vốn để xây dựng các hạ tầng xã hội phục vụ các KCN còn khó khăn. Nhận thức của người dân, xã hội về giáo dục nghề nghiệp còn hạn chế, tâm lý xã hội còn coi trọng bằng cấp, chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của học nghề. Công tác giải phóng mặt bằng một số công trình, dự án còn gặp khó khăn, ảnh hưởng tiến độ đầu tư.
Ý thức trách nhiệm bảo vệ môi trường của một số chủ đầu tư thứ cấp chưa cao, có hiện tượng né tránh đầu tư hoặc vận hành không thường xuyên các công trình, biện pháp bảo vệ môi trường; một số nhà máy gần khu dân cư. Các chủ đầu tư hạ tầng KCN chưa nhận thức hết vai trò, trách nhiệm của mình trong việc kiểm soát các vấn đề môi trường trong các KCN./.
Nguồn: Báo cáo của Sở Công Thương tỉnh Hà Nam;
Lê Anh Tú
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại