1. Khái quát quá trình phát triển tư duy Hợp tác kinh tế quốc tế của Đảng qua các kỳ Đại hội
Đại hội VI (1986) của Đảng khẳng định: Nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế trong chặng đường đầu tiên cũng như sự nghiệp phát triển khoa học - kỹ thuật và công nghiệp hoá Xã hội Chủ nghĩa (XHCN) của nước ta tiến hành nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc một phần quan trọng vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Đại hội VII (1991) chỉ rõ: Đa dạng hoá, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại. Huy động tiềm năng của nền kinh tế, phát huy lợi thế tương đối, vừa đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất và đời sống trong nước, vừa hướng mạnh về xuất khẩu”. Đại hội VIII (1996) của Đảng đã tiếp tục khẳng định chủ trương và đường lối đối ngoại nói chung, chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng theo hướng: Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả. Đại hội IX (2001) nêu ra đường lối và chiến lược phát triển kinh tế là: Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững. Sau Đại hội IX của Đảng, ngày 27-11-2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 07/NQ-TW về việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ vốn, công nghệ, tri thức quản lý hiện đại để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế thị trường nước ta theo định hướng XHCN.
Đại hội X (năm 2006) của Đảng tiếp tục chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng kinh tế đối ngoại gắn với nâng cao khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế”. Đại hội X nêu cao yêu cầu “đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại”, đồng thời đề cao nhiệm vụ “hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương” trong bối cảnh thời điểm đó nước ta đang đứng trên ngưỡng cửa của sự hội nhập hoàn toàn và đầy đủ vào nền kinh tế thế giới với việc nỗ lực hoàn tất thủ tục để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Đại hội XI (2011) của Đảng tiếp tục khẳng định những tinh thần trên và mở rộng nội dung hội nhập: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, XHCN giàu dân tộc, vì một nước Việt Nam chủ nghĩa giàu mạnh và xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học - công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến.
Đại hội XII (2016) của Đảng đã bổ sung và hoàn thiện quan điểm phát triển hội nhập kinh tế quốc tế: nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chú trọng chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và thị trường tiêu thụ sản phẩm; chủ động lựa chọn và có chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư nước ngoài có trình độ quản lý và công nghệ hiện đại, có vị trí hiệu quả trong chuỗi giá trị toàn cầu, có liên kết với doanh nghiệp trong nước. Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước nhằm phát triển công nghiệp phụ trợ và công nghiệp quy mô lớn, chất lượng cao, gắn với các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu, sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đại hội XIII (2021) nêu rõ nhiệm vụ “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả, vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia. Đại hội xác định “chuyển chính sách trọng tâm thu hút hợp tác, đầu tư nước ngoài từ số lượng sang chất lượng,… Xây dựng các tiêu chí thu hút đầu tư để lựa chọn, ưu tiên thu hút đầu tư phù hợp với quy hoạch, định hướng phát triển ngành, lĩnh vực, địa bàn”. Trong đó cần quan tâm các tiêu chí về tác động của các dự án, các đối tác đến bảo đảm quốc phòng, an ninh; kiên quyết không lựa chọn, không cấp giấy phép cho những dự án gây bất lợi cho bảo đảm quốc phòng - an ninh đất nước.
Nhằm thực hiện các quan điểm nêu trên, Đảng đã ban hành những văn bản cụ thể như: Ngày 27-11-2001, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW “Về hội nhập kinh tế quốc tế”; ngày 05-02-2007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới”; Ngày 10-4-2013, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế; Ngày 7 tháng 1 năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 40/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 của Việt Nam; Nghị quyết số 06-NQ/TW Hội nghị Trung ương 4 khóa XII ngày 5/11/2016…
2. Nhận diện, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái về hội nhập kinh tế quốc tế trong ngành công thương.
Hiện nay, các thế lực thù địch tăng cường thông tin sai lệch, xuyên tạc chính sách đối ngoại của Việt Nam nói chung đặc biệt là và quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với các đối tác quan trọng trong khu vực cũng như trên thế giới. Trong đó nổi cộm là những luận điểm hết sức sai trái như: Quá trình hội nhập của Việt Nam là xoay trục sang con đường phát triển tư bản chủ nghĩa, các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương là hình thức mở cửa để tư bản vào khai thác thị trường Việt Nam. Mặt khác, các thế lực này thường xuyên thông tin sai lệch tác động lên các đối tác của ta, gây sức ép để quá trình đàm phán bất lợi, hòng đan cài những vấn đề chính trị trong các nội dung kinh tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế trong kỷ nguyên mới là xu hướng tất yếu, với các liên kết kinh tế khu vực và song phương đang và sẽ tiếp tục được thúc đẩy. Có thể thấy, trong hơn 35 năm đổi mới, các quan điểm, chủ trương của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế mang tính nhất quán, hệ thống, luôn được cập nhật và kế thừa qua các kỳ Đại hội. Những năm qua, Việt Nam đã tích cực đẩy mạnh phát triển hội nhập kinh tế với thế giới cũng như tham gia mạng lưới các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Qua đó, kinh tế Việt Nam đã từng bước khẳng định là một động lực phát triển quan trọng thiết yếu của nền kinh tế. Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam đã gia tăng nhanh chóng từ mức khoảng 5 tỷ USD trong năm 1990 lên gần 30 tỷ USD năm 2000, lên khoảng 160 tỷ USD năm 2010 và lên khoảng 683 tỷ USD năm 2023, với cơ cấu hàng hóa chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm xuất khẩu thô, tăng tỷ trọng hàng chế biến, mang hàm lượng giá trị gia tăng cao. Là một nước có độ mở kinh tế cao (khoảng 200% GDP), Việt Nam đã và đang tham gia 19 Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có 2 FTA thế hệ mới mà Việt Nam đang thực hiện là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA). Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đó mang lại nhiều kết quả tích cực đối với Việt Nam, đóng góp vào các mục tiêu về tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu cũng như thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Tựu chung lại, những nỗ lực của Đảng và Nhà nước là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong bối cảnh mới, việc nước ta lựa chọn con đường chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là một lựa chọn đúng đắn và sáng suốt mà Đảng và Nhà nước đã đề ra, góp phần nâng cao thực lực kinh tế và thực hiện khát vọng phát triển đất nước ngày càng lớn mạnh, phồn vinh.
3. Khuyến nghị một số giải pháp
Đầu tiên, về phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền: (i) Tiếp tục tuyên truyền sâu rộng các quan điểm, chủ trương, nhất quán của Đảng về bảo vệ môi trường, Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị; (ii) Thường xuyên theo dõi, nắm bắt tình hình tư tưởng cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân về các vấn đề liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế để kịp thời định hướng dư luận, củng cố niềm tin của nhân dân vào chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng, Nhà nước và tích cực đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch; (iii) Cần sớm vào cuộc điều tra, làm rõ, tìm ra các đối tượng cầm đầu, đứng sau những trang, nhóm chống phá Đảng, Nhà nước, ngụy tạo dẫn chứng và thông tin gây hoang mang trong Nhân dân, xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, về phía cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức tại Bộ Công Thương:
Đối với các cán bộ, đảng viên nói chung và đặc biệt là các cán bộ về hợp tác quốc tế, đàm phán hiệp định, tham gia vào các đề tài đề án nước ngoài cần phát huy vai trò của cán bộ, đảng viên gắn với địa bàn cư trú, nơi làm việc trong công tác tuyên truyền, định hướng thông tin và đấu tranh loại bỏ thông tin xấu độc liên quan đến Đảng, Nhà nước, Chính phủ nói chung và các vấn đề môi trường nói riêng. Trong đời sống hàng ngày và trên “mặt trận” không gian mạng, mỗi tài khoản mạng xã hội (Facebook, Zalo, ...) của cán bộ, đảng viên phải là một kênh nguồn thông tin tin cậy, lành mạnh, đại sứ hình ảnh, truyền thông về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng một cách đa dạng, mới mẻ, thu hút đông đảo bạn bè, đồng nghiệp và người thân theo dõi, ủng hộ tin tưởng vào Đảng và Nhà nước; tuyệt đối không chạy theo các trào lưu, xu hướng tiêu cực; kịp thời phát hiện, cảnh báo cho cộng đồng về các trang cung cấp thông tin xấu, độc, giả mạo, không đúng; phát hiện kịp thời các nguy cơ xâm hại đến nền tảng tư tưởng của Đảng, không làm lan truyền các thông tin sai trái, không “để mặc” những thông tin không đúng tác động đến nhận thức của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan, từ đó phối hợp các cơ quan chức năng xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Mặt khác, chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn, bảo vệ bí mật của Đảng, Nhà nước và cơ quan, đơn vị mình công tác. Nếu không có lập trường, tư tưởng vững vàng, các sản phẩm trí tuệ của các cán bộ, đảng viên sẽ trở thành những mảnh đất màu mỡ để các thế lực thù địch có thể bóp méo, xuyên tạc, đặc biệt là các cán bộ đảng viên tham gia đàm phán hiệp định thương mại hoặc tham gia vào các đề tài, dự án với nước ngoài.
Thứ ba, về phía nhân dân: Mỗi người dân cần tăng cường khả năng “miễn dịch”, nâng cao “sức đề kháng”, luôn đề cao cảnh giác với những âm mưu thủ đoạn chống phá để phá hoại, lôi kéo, kích động gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Kết luận
Sau hơn 35 năm đổi mới, các quan điểm, chủ trương của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế mang tính nhất quán, hệ thống, luôn được cập nhật và kế thừa qua các kỳ Đại hội. Mọi luận điểm của các thế lực thù địch dù có sai trái, bóp méo sự thật đến đâu cũng không thể thay đổi được sự thật rằng, chủ trương hội nhập kinh tế của tế của Đảng đã mang tới sự phát triển bền vững cho đất nước, cho nhân dân ngày hôm nay. Tuy nhiên, các cán bộ, đảng viên nói chung và đặc biệt là các cán bộ về hợp tác quốc tế vẫn cần đề cao cảnh giác và nâng cao bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin vào đường lối chính sách của Đảng, trau dồi năng lực chuyên môn và trình độ chuyên môn để góp phần vào công cuộc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình hiện nay./.
Nguyễn Minh Thắng
Phòng Nghiên cứu chiến lược, chính sách thương mại - VIOIT
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG
2. ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST
3. Nguyễn Phú Trọng (2021) – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb CTQGST.
4. Nguyễn Ngọc Hồi (2023), Nhận diện và phê phán các quan điểm sai trái về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, http://tapchiqptd.vn/vi/phong-chong-dbhb-bao-ve-vung-chac-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/nhan-dien-va-phe-phan-cac-quan-diem-sai-trai-ve-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia/20643.html
5. Nguyễn Đức Phúc (2021), Phản bác các quan điểm sai trái về kinh tế thị trường định hướng XHCN, https://www.xaydungdang.org.vn/ly-luan-thuc-tien/phan-bac-cac-quan-diem-sai-trai-ve-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xhcn-1619