Chiều 12/3, tại Hà Nội, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) công bố kết quả xếp hạng Chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương năm 2023 (viết tắt là PII - Provincial Innovation Index), sau một năm xây dựng. Bộ chỉ số PII cung cấp bức tranh thực tế, tổng thể về hiện trạng mô hình phát triển kinh tế, xã hội dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo (KHCN & ĐMST) của từng địa phương. Bộ chỉ số cung cấp căn cứ và bằng chứng về điểm mạnh, yếu, các yếu tố tiềm năng và các điều kiện cần thiết để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội dựa trên KHCN & ĐMST của từng địa phương.
Dựa trên bộ chỉ số, các nhà hoạch định chính sách, các cấp lãnh đạo địa phương có cơ sở xác định, lựa chọn các định hướng, giải pháp phù hợp cho việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương mình dựa trên KHCN & ĐMST.
1. Bối cảnh ra đời
Nghị quyết số 05-NQ/TW Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế; Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và Chiến lược phát triển Khoa học công nghệ và Đổi mới sáng tạo (KHCN & ĐMST) đến năm 2030... đã khẳng định đổi mới mô hình tăng trưởng của Việt Nam theo hướng “chuyển dần từ dựa vào gia tăng số lượng các yếu tố đầu vào của sản xuất sang dựa vào tăng năng suất, chất lượng lao động, ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo”.
Tuy nhiên, do chưa có các mô tả định lượng để giúp hình dung và cụ thể hóa thành mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể, việc phải có một bộ chỉ số mô tả hiện trạng mô hình phát triển kinh tế - xã hội dựa trên KHCN & ĐMST là cần thiết. Bộ chỉ số sẽ cung cấp cơ sở về điểm mạnh, yếu, về các yếu tố tiềm năng và các điều kiện cần, giúp các nhà hoạch định chính sách và các cấp lãnh đạo có cơ sở xác định, lựa chọn các định hướng, giải pháp phù hợp cho phát triển kinh tế - xã hội dựa trên KHCN & ĐMST ở cả cấp quốc gia và cấp địa phương.
Ở cấp quốc gia, từ năm 2017, Chính phủ đã sử dụng bộ chỉ số ĐMST toàn cầu GII do Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) công bố hàng năm. Chỉ số GII xác định các điểm mạnh, điểm yếu của quốc gia, từ đó đưa ra các giải pháp cải thiện phù hợp, cũng như kịp thời xây dựng, ban hành các chính sách có liên quan.
Tại Nghị quyết hàng năm, Chính phủ đã phân công cụ thể đến từng bộ, ngành chủ trì theo dõi và cải thiện các chỉ số Việt Nam còn yếu kém, đồng thời giao Bộ Khoa học và Công nghệ làm đầu mối điều phối, theo dõi chung.
Những năm qua, kết quả chỉ số GII của Việt Nam luôn có sự cải thiện tích cực. Việt Nam liên tục được tổ chức WIPO ghi nhận là quốc gia có điểm số cao hơn so với mức trung bình của các nước cùng nhóm thu nhập. Trong 12 năm liền, Việt Nam luôn có kết quả ĐMST cao hơn so với mức độ phát triển, cho thấy hiệu quả trong việc chuyển các nguồn lực đầu vào thành kết quả đầu ra phát triển kinh tế - xã hội.
Bảng 1. Tiến bộ về xếp hạng Chỉ số GII của Việt Nam trong 10 năm gần đây
|
2013
|
2014
|
2015
|
2016
|
2017
|
2018
|
2019
|
2020
|
2021
|
2022
|
2023
|
Nhóm chỉ số đầu vào
|
89
|
100
|
78
|
79
|
71
|
65
|
63
|
62
|
60
|
59
|
57
|
1. Thể chế
|
122
|
121
|
101
|
93
|
87
|
78
|
81
|
83
|
83
|
51
|
48
|
2. Vốn con người và nghiên cứu và phát triển
|
98
|
89
|
78
|
74
|
70
|
66
|
61
|
79
|
79
|
80
|
71
|
3. Cơ sở hạ tầng
|
80
|
99
|
88
|
90
|
77
|
78
|
82
|
73
|
79
|
71
|
70
|
4. Trình độ phát triển của thị trường
|
73
|
92
|
67
|
64
|
34
|
33
|
29
|
34
|
22
|
43
|
49
|
5. Trình độ phát triển của doanh nghiệp
|
67
|
59
|
40
|
72
|
73
|
66
|
69
|
39
|
47
|
50
|
49
|
Nhóm chỉ số đầu ra
|
54
|
47
|
39
|
42
|
38
|
41
|
37
|
38
|
38
|
41
|
40
|
6. Sản phẩm tri thức và công nghệ
|
51
|
49
|
28
|
39
|
28
|
35
|
27
|
37
|
41
|
52
|
48
|
7. Sản phẩm sáng tạo
|
66
|
58
|
62
|
52
|
52
|
46
|
47
|
38
|
42
|
35
|
36
|
Xếp hạng chung
|
76
|
71
|
52
|
59
|
47
|
45
|
42
|
42
|
44
|
48
|
46
|
Nguồn: Báo cáo Chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương năm 2023 của Bộ Khoa học và Công nghệ
Việt Nam là một trong số ít những quốc gia thu nhập trung bình thấp được tổ chức WIPO ghi nhận có tốc độ bắt kịp về ĐMST nhanh nhất. Tuy nhiên, ở cấp địa phương, nhiều nơi còn lúng túng trong việc tham gia thực hiện Nghị quyết của Chính phủ về cải thiện chỉ số GII cấp quốc gia.
Một trong những lý do là chỉ số GII đánh giá ở cấp quốc gia nên nhiều số liệu thống kê tương tự ở cấp địa phương không có. Ngoài ra, phương pháp đánh giá theo quy chuẩn quốc tế còn mới lạ nên có những điểm không phù hợp với cấp địa phương của Việt Nam.
Với sự khác biệt giữa các địa phương về quy mô kinh tế - xã hội, dân số, đất đai, cơ cấu kinh tế, định hướng phát triển..., các địa phương cần phải lựa chọn mô hình phát triển KT-XH dựa trên KHCN & ĐMST khác nhau, phù hợp với bối cảnh, điều kiện, đặc điểm riêng có của địa phương mình. Do đó, nhiều địa phương kiến nghị cần có bộ chỉ số ĐMST riêng, căn cứ vào đó có thể chỉ đạo, điều hành tốt hơn, sát với thực tiễn hơn.
Từ yêu cầu thực tiễn này, tháng 11/2021, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt đã tới thăm và làm việc với Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), trao đổi và đề nghị WIPO hỗ trợ Việt Nam về ĐMST. Tổng giám đốc WIPO đã cam kết hỗ trợ Việt Nam xây dựng PII trên nền tảng bộ chỉ số GII.
Tại phiên họp đầu năm 2022, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 12/NQ-CP ngày 30/01/2022, giao: “Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với cơ quan, địa phương, WIPO và các tổ chức liên quan xây dựng bộ chỉ số ĐMST cấp địa phương và tổ chức đánh giá thử nghiệm tại một số địa phương nhằm đo lường năng lực ĐMST và kết quả ĐMST của từng địa phương, đồng bộ với chỉ số ĐMST toàn cầu GII của Việt Nam”.
Sau khi có kết quả thử nghiệm, Chính phủ đã giao Bộ Khoa học và Công nghệ "chính thức triển khai xây dựng Bộ chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương trên phạm vi toàn quốc từ năm 2023" (Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 3 tháng 2 năm 2023).
2. PII được xây dựng dựa trên các chỉ số nào?
Khung chỉ số chỉ số ĐMST cấp địa phương năm 2023 đã được thiết kế với hai nhóm: Đầu vào ĐMST và Đầu ra ĐMST, với tổng cộng 52 chỉ số thành phần.
- Đầu vào ĐMST bao gồm 5 trụ cột: phản ánh những yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển KT-XH dựa trên KHCN&ĐMST, bao gồm: (1) Thể chế, (2) Vốn con người và Nghiên cứu & phát triển, (3) Cơ sở hạ tầng, (4) Trình độ phát triển của thị trường và (5) Trình độ phát triển của doanh nghiệp;
- Đầu ra ĐMST bao gồm 02 trụ cột: phản ánh kết quả tác động của KHCN & ĐMST vào phát triển KT-XH, bao gồm: (6) Sản phẩm tri thức, sáng tạo và công nghệ, (7) Tác động.
Dữ liệu phục vụ xây dựng bộ chỉ số PII 2023 được lấy từ hai nguồn chính. Nguồn thứ nhất từ số liệu thống kê, quản lý nhà nước được công bố chính thức từ các Bộ, cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức ở trung ương (có 39/52 chỉ số) và nguồn thứ hai do các địa phương thu thập và cung cấp – kèm theo các tài liệu minh chứng) (có 13/52 chỉ số). Trong giai đoạn thu thập dữ liệu, Bộ Khoa học và Công nghệ đã tổ chức nhiều hội thảo, nhiều buổi làm việc với các bộ, cơ quan trung ương để trao đổi thống nhất thu thập dữ liệu từ các cơ quan quản lý nhà nước. Đối với các địa phương, Bộ Khoa học và Công nghệ đã xây dựng bộ tài liệu hướng dẫn và tổ chức các buổi trao đổi, tập huấn cho các địa phương để thu thập các dữ liệu cũng như cung cấp các tài liệu minh chứng liên quan.
Trong giai đoạn xử lý, phân tích dữ liệu, tính toán chỉ số và xây dựng Báo cáo năm 2023, Bộ Khoa học và Công nghệ đã thực hiện theo các chuẩn mực quốc tế và sau đó đã tiếp tục gửi tới chuyên gia quốc tế độc lập (do WIPO giới thiệu từ năm 2022) để chuyên gia đánh giá độc lập trên nhiều góc độ như phương pháp thiết kế bộ chỉ số, độ tin cậy của dữ liệu, kỹ thuật tính toán…
3. Kết quả Bộ chỉ số Đổi mới sáng tạo cấp địa phương năm 2023
Kết quả xếp hạng chung: Theo kết quả xếp hạng Chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương năm 2023, Hà Nội là địa phương có điểm số cao nhất, đạt 62.86 điểm, xếp hạng 1. Sau Hà Nội là TP Hồ Chí Minh (hạng 2), Hải Phòng (hạng 3), Đà Nẵng (hạng 4), Cần Thơ (hạng 5), Bắc Ninh (hạng 6), Bà Rịa- Vũng Tàu (hạng 7), Bình Dương (hạng 8), Quảng Ninh (hạng 9) và Thái Nguyên (hạng 10).
Hà Nội đứng đầu cả nước ở cả xếp hạng đầu ra và đầu vào đổi mới sáng tạo nhờ dẫn đầu 14 chỉ số trong 52 chỉ số thành phần. Trong số này có các chỉ số về nghiên cứu và phát triển, đổi mới sáng tạo như nhân lực, chi cho nghiên cứu phát triển, số lượng tổ chức khoa học công nghệ, tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động nghiên cứu phát triển, tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo và các đầu ra về tài sản trí tuệ như sáng chế, giải pháp hữu ích, giống cây trồng, kiểu dáng công nghiệp hay các tác động đến kinh tế xã hội như chỉ số phát triển con người.
10 địa phương dẫn đầu gồm 5 thành phố trực thuộc trung ương và các tỉnh Bắc Ninh, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Quảng Ninh và Thái Nguyên. Đây đều là các tỉnh có công nghiệp phát triển, chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế. Trong 10 địa phương dẫn đầu, có 4 địa phương thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng (Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh và Quảng Ninh), 3 địa phương thuộc vùng Đông Nam Bộ (TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa -Vũng Tàu và Bình Dương), 1 địa phương thuộc vùng Trung du và miền núi phía Bắc (Thái Nguyên), 1 địa phương thuộc vùng Bắc trung bộ và Duyên hải miền Trung (Đà Nẵng) và 1 địa phương thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long (Cần Thơ).
Bảng 2. Điểm số PII 2023, Đầu vào, Đầu ra và 7 trụ cột của 10 địa phương dẫn đầu
Địa phương
|
Điểm số PII
|
Đầu vào
|
Đầu ra
|
1. Thể chế
|
2. Vốn con người và NC&PT
|
3. Cơ sở hạ tầng
|
4. Trình độ của thị trường
|
5. Trình độ của DN
|
6. SP tri thức, sáng tạo và CN
|
7. Tác động
|
Vùng
|
Hà Nội
|
62,86
|
62,55
|
63,17
|
53,59
|
63,06
|
68,23
|
77,81
|
50,04
|
63,16
|
62,55
|
ĐBSH
|
TP. Hồ Chí Minh
|
55,85
|
58,34
|
53,36
|
44,20
|
57,29
|
74,14
|
73,19
|
42,87
|
52,18
|
58,34
|
ĐNB
|
Hải Phòng
|
52,32
|
56,45
|
48,20
|
76,19
|
53,83
|
55,66
|
54,61
|
43,96
|
34,62
|
56,45
|
ĐBSH
|
Đà Nẵng
|
50,70
|
56,96
|
44,45
|
57,68
|
54,45
|
81,71
|
54,04
|
36,90
|
37,00
|
56,96
|
MT
|
Cần Thơ
|
49,66
|
42,79
|
56,53
|
50,02
|
45,07
|
55,45
|
42,34
|
21,08
|
52,52
|
42,79
|
ĐBSCL
|
Bắc Ninh
|
49,20
|
53,02
|
45,38
|
43,41
|
50,76
|
67,97
|
49,6
|
53,36
|
26,79
|
53,02
|
ĐBSH
|
Bà Rịa-Vũng Tàu
|
49,18
|
48,25
|
50,11
|
54,65
|
28,98
|
63,11
|
70,22
|
24,31
|
40,06
|
48,25
|
ĐNB
|
Bình Dương
|
48,64
|
49,52
|
47,77
|
32,49
|
30,59
|
76,37
|
56,53
|
51,61
|
32,52
|
49,52
|
ĐNB
|
Quảng Ninh
|
48,03
|
55,56
|
40,51
|
77,16
|
31,63
|
82,47
|
53,66
|
32,90
|
25,75
|
55,56
|
ĐBSH
|
Thái Nguyên
|
47,75
|
49,19
|
46,31
|
51,90
|
41,84
|
58,76
|
46,82
|
46,64
|
27,65
|
49,19
|
MNPB
|
Nguồn: Báo cáo Chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương năm 2023 của Bộ Khoa học và Công nghệ
Bảng 3. Các địa phương dẫn đầu nhiều chỉ số thành phần nhất
Địa phương
|
Số lượng chỉ số dẫn đầu
|
Đầu vào
|
Đầu ra
|
Tổng
|
Hà Nội
|
9
|
5
|
14
|
TP. Hồ Chí Minh
|
9
|
3
|
12
|
Bình Dương
|
4
|
3
|
7
|
Đà Nẵng
|
4
|
1
|
5
|
Long An
|
2
|
2
|
4
|
Nguồn: Báo cáo Chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương năm 2023 của Bộ Khoa học và Công nghệ
Kết quả xếp hạng PII 2023 theo 6 vùng kinh tế - xã hội:
Nhìn chung, các địa phương vùng Đồng bằng sông Hồng có điểm trung bình cao nhất, đạt 45,17 điểm, tiếp đến là các địa phương vùng Đông Nam Bộ (44,81 điểm). Các địa phương vùng Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung và Đồng bằng sông Cửu Long có điểm số trung bình sát nhau, lần lượt là 36,96 điểm và 36,36 điểm. Hai vùng Tây Nguyên và Trung du và miền núi phía Bắc có điểm số gần như nhau và thấp nhất (lần lượt là 32,72 điểm và 32,19 điểm). Về đầu vào ĐMST, các địa phương vùng Tây Nguyên có điểm số thấp nhất (31,83 điểm). Về đầu ra ĐMST, các địa phương vùng Trung du và miền núi phía Bắc có điểm số trung bình thấp nhất (30,25 điểm). Các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long có hiệu quả đầu vào - đầu ra ĐMST cao nhất, ngược lại các địa phương vùng Bắc trung bộ và duyên hải miền Trung kém nhất về hiệu quả đầu vào - đầu ra ĐMST.
Xét theo từng trụ cột, các địa phương thuộc vùng Đông Nam bộ có điểm số cao nhất ở 4 trên 7 trụ cột, gồm Cơ sở hạ tầng (61,85 điểm), Trình độ phát triển của thị trường (54,32 điểm), Sản phẩm tri thức, sáng tạo và công nghệ (30,12 điểm) và Tác động (59,37 điểm), nhưng có điểm số thấp nhất ở 1 trụ cột là Thể chế (43,30 điểm). Các địa phương thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng có điểm số cao nhất ở 3 trên 7 trụ cột, gồm Thể chế (56,72 điểm), Vốn con người và R&D (38,40 điểm), Trình độ phát triển của doanh nghiệp (39,67điểm). Các địa phương thuộc vùng Trung du và miền núi phía Bắc có điểm số thấp nhất ở 3 trên 7 trụ cột, bao gồm Cơ sở hạ tầng (42,20 điểm), Sản phẩm tri thức, sáng tạo và công nghệ (20,14 điểm) và Tác động (40,37 điểm). Các địa phương vùng Tây Nguyên có điểm số thấp nhất ở 2 trên 7 trụ cột, bao gồm Trình độ phát triển của thị trường (27,00 điểm), Trình độ phát triển của doanh nghiệp (15,53 điểm). Các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long có điểm số thấp nhất ở trụ cột Vốn con người và Nghiên cứu và phát triển (26,83 điểm).
Các địa phương dẫn đầu theo vùng kinh tế - xã hội như sau:
- Trung du và miền núi phía Bắc: Thái Nguyên (47,75 điểm), Bắc Giang (46,51 điểm) và Phú Thọ (41,29 điểm). Trong đó, Thái Nguyên và Bắc Giang là hai địa phương có tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng cao và có thu nhập bình quân đầu người ở mức khá. Phú Thọ có tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng và ngành dịch vụ ở mức khá và có thu nhập bình quân đầu người ở mức trung bình.
- Đồng bằng sông Hồng: Hà Nội (62,86 điểm), Hải Phòng (52,32 điểm), Bắc Ninh (49,20 điểm). Cả ba địa phương thuộc Vùng đồng bằng sông Hồng đều nằm trong nhóm 10 địa phương dẫn đầu PII 2023 của cả nước. Các địa phương này đều có thu nhập bình quân đầu người ở mức cao và có các ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế.
- Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung: Đà Nẵng (50,70 điểm), Thừa Thiên Huế (44,01 điểm), Ninh Thuận (39,69 điểm). Trong đó, Đà Nẵng và Thừa Thiên Huế có ngành dịch vụ phát triển, chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu kinh tế. Đà Nẵng có thu nhập bình quân đầu người ở mức cao, còn Thừa Thiên Huế có thu nhập bình quân đầu người ở mức khá. Ninh Thuận là địa phương có thu nhập bình quân đầu người ở mức trung bình nhưng có tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ ở mức khá.
- Tây Nguyên: Lâm Đồng (43,58 điểm), Kon Tum (34,44 điểm). Lâm Đồng là địa phương có ngành nông lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế và có thu nhập bình quân đầu người ở mức khá. Kon Tum có ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhưng thu nhập bình quân đầu người còn ở mức thấp.
- Đông Nam bộ: TP. Hồ Chí Minh (55,85 điểm), Bà Rịa - Vũng Tàu (49,18 điểm). Khu vực dịch vụ của TP. Hồ Chí Minh chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu kinh tế và có thu nhập bình quân đầu người ở mức cao. Bà Rịa - Vũng Tàu có khu vực công nghiệp - xây dựng (bao gồm dầu khí) chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế và có thu nhập bình quân đầu người ở mức khá.
- Đồng bằng sông Cửu Long: Cần Thơ (49,66 điểm), Long An (44,95 điểm), Đồng Tháp (38,32 điểm). Cần Thơ có khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu kinh tế, thu nhập bình quân đầu người ở mức cao. Long An có khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu kinh tế, thu nhập bình quân đầu người ở mức trung bình. Còn Đồng Tháp có tỷ trọng khu vực dịch vụ và nông, lâm và thủy sản cao và có thu nhập bình quân đầu người ở mức khá.
Tuy nhiên, theo Bộ KH&CN, việc so sánh trực tiếp giữa các địa phương chỉ mang tính tương đối, không phải là mục đích chính của bộ chỉ số bởi mỗi địa phương có các điều kiện, đặc điểm khác nhau và có định hướng phát triển khác nhau. Theo đó, Bộ chỉ số PII cung cấp căn cứ khoa học và các minh chứng về điểm mạnh, điểm yếu, về các yếu tố tiềm năng và các điều kiện cần thiết để phát triển kinh tế - xã hội dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo của từng địa phương. Với phạm vi rộng, toàn diện, bộ chỉ số PII sẽ là công cụ để mỗi tỉnh/thành phố soi chiếu được chi tiết góc độ ở các khía cạnh đầu ra, đầu vào, xác định rõ điểm mạnh, yếu, yếu tố tiềm năng và điều kiện cần thiết để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo./.
Trương Thị Quỳnh Vân
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT