1. Kết quả sản xuất công nghiệp - thương mại
6 tháng đầu năm 2023, trong điều kiện kinh tế thế giới có những dấu hiệu sụt giảm, kinh tế trong nước còn gặp khó khăn, các doanh nghiệp sản xuất chính của tỉnh như sản xuất bia, alumin, sợi len lông cừu,…gặp khó khăn về thị trường, nhưng với sự nỗ lực của doanh nghiệp, sự hỗ trợ kịp thời của các cấp các ngành trên địa bàn tỉnh, các ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh vẫn có sự tăng trưởng, giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) luỹ kế 06 tháng năm 2023 ước đạt 12.112,74 tỷ đồng, tăng 7,63% so với cùng kỳ năm trước đạt 45,86% so với kế hoạch, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 3,34% so với cùng kỳ; hoạt động thương mại sôi động, nguồn cung hàng hóa luôn đáp ứng nhu cầu của thị trường. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ 6 tháng đầu năm 2023 đạt 40.500 tỷ đồng, tăng 17,33% so với cùng kỳ năm trước và đạt 53,12% so với kế hoạch (dự ước đã phân bổ). Giá trị xuất khẩu toàn tỉnh 6 tháng đầu năm ước đạt 431,27 triệu USD, giảm 1,2% so với cùng kỳ năm trước và đạt 46,4% kế hoạch năm 2023. Lũy kế giá trị nhập khẩu 06 tháng đầu năm 2023 ước đạt 73,44 triệu USD, giảm 7,56% so với cùng kỳ năm trước và đạt 41,5% kế hoạch năm 2023.
Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu của tỉnh có dấu hiệu phục hồi, có 6/7 mặt hàng xuất khẩu tăng về lượng/giá trị, trong đó mặt hàng rau củ xuất khẩu tăng mạnh (+104,7% về lượng, +43,98% về giá trị). Sau đại dịch Covid, ngành Công Thương đã khẩn trương, chủ động triển khai các chương trình, giải pháp hỗ trợ kích thích sản xuất, đầu tư, mở rộng thị trường trong và ngoài nước với các hoạt động xúc tiến thương mại như quảng bá, triển lãm, khuyến mại, thông tin và kết nối thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, chương trình khuyến công hỗ trợ sản xuất công nghiệp cụ thể, hiệu quả; kịp thời nắm bắt tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đã giúp doanh nghiệp ổn định sản xuất, thúc đẩy tiêu thụ, phát triển thị trường. Công tác phát triển lưới điện, nguồn điện được tập trung đầu tư phát triển; sản xuất và phân phối điện đảm bảo phục vụ sản xuất và sử dụng của người dân; công tác quản lý vật liệu nổ công gnhiệp, vận hành hồ đập thủy điện bảo đảm an toàn, đúng quy định, không ảnh hưởng đến sinh hoạt của Nhân dân.
2. Tồn tại, khó khăn
Giá trị sản xuất một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh (Alumin, bia, sợi len lông cừu, rau cấp đông, phân bón NPK) và sản lượng điện của một số nhà máy thủy điện giảm so với cùng kỳ. Sản phẩm của doanh nghiệp tiêu thụ chậm, hoạt động xuất khẩu gặp nhiều khó khăn nhất là nhóm hàng dệt may (giá trị xuất khẩu giảm 34,09% so với cùng kỳ). Doanh nghiệp sản xuất, chế biến sản phẩm chè thiếu nguồn nguyên liệu.
3. Nguyên nhân
Nhu cầu thị trường giảm nhất là thị trường quốc tế dẫn đến sản phẩm tiêu thụ chậm, sản xuất giảm; đặc biệt các doanh nghiệp dệt may không có đơn hàng (đơn hàng chủ yếu từ Châu Âu, Bắc Mỹ); một số công ty xuất khẩu sang các thị trường các nước Trung Á như Ả rập, Afganistan, Pakistan gặp khó khăn trong thanh toán từ đối tác (tỷ giá đồng đô la Mỹ biến động, thiếu ngoại tệ,…) nên đã tạm ngưng xuất hàng. Ảnh hưởng của hiện tượng El Nino, thời tiết bất thường (nắng nóng, hạn hán) đã làm cho các hồ thủy điện bậc trên thiếu nước, lượng nước về hồ thấp (thủy điện Đồng Nai 2, Đồng Nai 5), có nguy cơ ảnh hưởng đến sản lượng cung cấp điện và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Giá nguyên vật liệu, lãi suất vay ngân hàng vẫn còn cao, ảnh hưởng của lạm phát đã tác động đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp./.
Trần Thị Thúy Hằng
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT