Về sản xuất công nghiệp
Theo báo cáo của Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang, tình hình kinh tế - xã hội của Tỉnh trong tháng 7 năm 2023 tiếp tục phát triển, các chỉ tiêu kinh tế duy trì ở mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước. Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 7/2023 ước thực hiện: Tính theo giá so sánh 2010, đạt 3.654,34 tỷ đồng, tăng 5,79% so với tháng trước và tăng 22,13% so với cùng kỳ năm 2022; tính theo giá hiện hành, đạt 6.236,35 tỷ đồng, tăng 6,52% so với tháng trước và tăng 38,03% so với cùng kỳ năm 2022.
Ước thực hiện 7 tháng năm 2023, giá trị sản xuất công nghiệp:
- Tính theo giá so sánh 2010, đạt 22.046,11 tỷ đồng, tăng 11,61% so với cùng kỳ năm trước và đạt 56,56% so với kế hoạch năm.
- Tính theo giá hiện hành, đạt 37.733,91 tỷ đồng, tăng 24,11% so với cùng kỳ năm trước và đạt 58,30% so với kế hoạch năm. Trong đó:
+ Khu vực kinh tế nhà nước, có 2 doanh nghiệp đóng góp giá trị sản xuất 8.231,75 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 21,82% trong toàn ngành và tăng 246,74% so với cùng kỳ.
+ Khu vực kinh tế tư nhân, có 233 doanh nghiệp và trên 4.237 cơ sở cá thể công nghiệp, đóng góp giá trị sản xuất 22.829,05 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 60,50% trong toàn ngành và tăng 8,29% so với cùng kỳ;
+ Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, có 10 doanh nghiệp và đóng góp giá trị sản xuất 6.673,12 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 17,68% trong toàn ngành và giảm 3,95% so với cùng kỳ.
Đối với chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
Nhờ sự hồi phục của thị trường tiêu thụ trong nước, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tỉnh Hậu Giang trong tháng 7/2023 tiếp tục tăng 1,77% so với tháng trước, tăng 15,30% so với cùng kỳ năm 2022, đánh dấu sự bứt phá cao nhất trong gần 20 năm thành lập tỉnh (1/1/2004). Trong đó:
- Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo của tỉnh là ngành chiếm tỷ trọng lớn nhất trong toàn ngành công nghiệp với mức tăng 12,24%, tốc độ tăng trưởng của ngành sản xuất này đạt được là do thị trường tiêu thụ trong nước đã phục hồi. Nên chỉ số sản xuất một số ngành tăng so với cùng kỳ như: Sản xuất đồ uống tăng 34,95%; sản xuất trang phục tăng 26,16%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 7,33%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 94,75%; sản xuất nước mắm tăng rất cao đạt 11.042 ngàn lít, sản xuất mì ống, mì sợi được 1.745 tấn, tăng 49,91% so với cùng kỳ năm trước. Ở chiều ngược lại, chỉ số sản xuất công nghiệp trong tháng 7 năm 2023 của tỉnh Hậu Giang vẫn có một số ngành chiếm tỷ trọng lớn trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo nhưng giảm so với cùng kỳ như: chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản giảm 3,94%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy.
- Ngành sản xuất phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí: Tăng 1,81% so với tháng trước và tăng 83,67% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do các tổ máy của Nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I, chính thức vận hành thương mại và theo nhu cầu thực tế, nên dự tính sản lượng điện sản xuất được trên 531 triệu kwh, tăng 2,12% so với tháng trước và tăng 92,83% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, cùng thời điểm này năm trước các tổ máy mới vận hành chính thức, nên sản lượng đạt chỉ 275,37 triệu kwh. Vì vậy, đã làm tăng đột biến chỉ số ngành này so với cùng kỳ năm trước. Cũng nhờ đó, Công ty điện lực Hậu Giang đã cung cấp đủ điện, an toàn phục vụ phát triển kinh tế xã hội, hạn chế tối đa không để tình trạng mất điện, đảm bảo nhu cầu sử dụng cho người dân và các doanh nghiệp được hoạt động liên tục. Bên cạnh đó, Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải: Tăng 0,65% so với tháng trước và tăng 13,60% do Hậu Giang vừa có Công Ty TNHH Một Thành Viên Cấp Nước Hậu Giang đi vào hoạt động ổn định từ cuối năm 2022 đến nay, với sản lượng trên 1,26 triệu M3/tháng. Vì vậy, đã làm chỉ số sản xuất ngành này tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước.
Lũy kế, 7 tháng năm 2023, chỉ số sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh tăng 12,40% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó: Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục đóng vai trò làm động lực tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp với mức tăng 7,34%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 211,26%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 13,93%. Một số ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong toàn ngành công nghiệp của tỉnh, duy trì sản xuất ổn định và có chỉ số sản xuất tăng so với cùng kỳ năm trước như: Sản xuất trang phục tăng 12,45%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 65,84%; sản xuất, truyền tải và phân phối điện tăng 211,26%… trong đó, có một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh 7 tháng năm 2023 tăng rất cao so với cùng kỳ năm 2022 như sau:
- Sản lượng nước mắm sản xuất được 57,60 triệu lít, tăng 1.436,82% chiếm tỷ trọng 8,33% trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, chiếm 2,52% tỷ trọng trong toàn ngành và sản lượng mì, phở, miến, bún, cháo ăn liền được 9.289 tấn, tăng 17,48%, chiếm tỷ trọng 3,44% trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, chiếm tỷ trọng 1,04% trong toàn ngành, đây cũng là 2 sản phẩm chủ lực của Công ty TNHH một thành viên Masan Hậu Giang. Ngoài ra, đến thời điểm hiện tại, trên địa bàn tỉnh Hậu Giang có rất nhiều dự án của các Doanh nghiệp hoạt động mới đầu tư hoàn thành hoặc tăng sản lượng đi vào hoạt động như: dây chuyền sản xuất sữa của Công ty TNHH một thành viên Masan Hậu Giang với sản lượng dự tính được 1,12 triệu lít/tháng, các sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra, thuộc nhóm hàng hóa tiêu dùng thiết yếu và được phân phối trực tiếp đến các hệ thống siêu thị trong vùng, nên thị trường của doanh nghiệp rất ổn định và có khả năng tăng trưởng cao hơn nữa trong những tháng tiếp theo. Công ty Thức Ăn Chăn Nuôi Rico Hậu Giang; Công ty TNHH Thanh Khôi; Công ty TNHH MNS Feed Hậu Giang tăng sản lượng sản xuất trong những tháng vừa qua, để đáp ứng nhu cầu chăn nuôi của các hộ nông dân trong tỉnh nói riêng và trong khu vực nói chung đã làm tăng sản lượng sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm và thủy sản được 210.585 tấn, tăng 13,20%, chiếm tỷ trọng 22,81% trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và chiếm tỷ trọng 6,90% trong toàn ngành. Sản lượng điện sản xuất được 3.470 triệu kwh, tăng 257,91% so với cùng kỳ, chiếm tỷ trọng 96% trong ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước, điều hoà không khí và chiếm tỷ trọng 21,51% trong toàn ngành.
Song ở chiều ngược lại, do ảnh hưởng của giá nguyên, vật liệu đầu vào tăng, cũng như thị trường xuất khẩu đang gặp khó khăn, lạm phát tăng cao khiến người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu, nên một số sản phẩm công nghiệp sản xuất chủ yếu phục vụ thị trường xuất khẩu giảm sản lượng sản xuất như: sản lượng sản xuất tôm đông lạnh giảm 33,93%;; sản lượng sản xuất giày dép các loại giảm 10,20% ; sản lượng sản xuất giấy và bìa khác giảm 5,72%; bên cạnh đó, sản lượng sản xuất bia đóng chai giảm 39,41%... so với cùng kỳ năm 2022 do ý thức của người dân, không sử dụng rượu, bia khi tham gia giao thông đã thành thói quen đi vào cuộc sống, nên tình hình tiêu thụ rượu, bia giảm nhiều so với trước, Vì vậy, nhà máy cắt giảm sản lượng sản xuất so với cùng kỳ, để hạn chế hàng tồn kho nhiều, ảnh hưởng đến vốn sản xuất của doanh nghiệp.
Nhìn chung, trong 7 tháng năm 2023 tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh có tăng trưởng, nhưng vẫn có một số ngành nghề phát triển chưa bền vững do bị tác động về thị trường xuất khẩu và một số yếu tố khách quan như: Điện, giá xăng, dầu biến động khó lường trong những tháng vừa qua. Do vậy, Hậu Giang cần nỗ lực hơn nữa để triển khai nhiều giải pháp mang tính phát triển bền vững. Bên cạnh đó, các ngành chức năng cũng cần có kế hoạch và tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy các doanh nghiệp đang đầu tư sớm đi vào hoạt động đúng theo kế hoạch của doanh nghiệp đã đề ra, để giá trị sản xuất công nghiệp tăng cao trong tháng cuối năm và phát triển ổn định trong những năm tới.
Về thương mại dịch vụ
Đóng góp trong sự tăng trưởng mạnh mẽ của Hậu Giang trong những tháng qua còn có đà tăng trưởng của nhóm ngành thương mại, dịch vụ. Song Hoạt động kinh doanh của các cơ sở thương mại và dịch vụ trên địa bàn trong tháng 7 có sự tăng trưởng không đồng đều, doanh thu tạo ra giữa các ngành không đồng nhất có xu hướng tăng giảm khác nhau. Ước tổng doanh thu bán lẻ và các ngành dịch vụ tháng 7/2023 thực hiện được 4.591,25 tỷ đồng, so với tháng trước giảm 0,73% so với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước tăng 20,34% so với cùng kỳ năm trước. trong đó:
- Doanh thu bán lẻ hàng hoá thực hiện được 3.327,60 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 95,46% và so với cùng kỳ bằng 121,57%. Lĩnh vực bán lẻ hàng hóa trong tháng có sự biến động nhiều ở các cơ sở sản xuất kinh doanh. Mặt khác, trong tháng cũng chịu sự sụt giảm giá trị doanh thu của một số nhóm hàng lớn trong tổng doanh thu bán lẻ, chủ yếu là lương thực, thực phẩm giảm 1,82%; gỗ và vật liệu xây dựng giảm 3,01% vì thị trường tiêu thụ gặp nhiều khó khăn, các sản phẩm thép trong nước chịu sự cạnh tranh gay gắt với các sản phẩm thép nhập khẩu. Doanh thu các ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành) thực hiện được 664,37 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 12,93%.
Lũy kế, 7 tháng năm 2023, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng, hầu hết đều có mức tăng cao so với cùng kỳ, bình quân trên 15% nên đã góp phần làm tổng doanh thu chung tăng ở mức cao. Ước thực hiện được 31.714,88 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước bằng 116,16%. Cụ thể:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 23.753,13 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 115,78%. Qua 7 tháng, hầu hết các nhóm hàng chủ lực đều có mức tăng tương đối cao so với cùng kỳ chỉ có một số ít nhóm hàng vẫn còn giá trị giảm do trong những tháng đầu năm thị trường có nhiều biến động không thuận lợi nên hoạt động kinh doanh các lĩnh vực nhóm ngành này bị ảnh hưởng dẫn đến sụt giảm giá trị như: Đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình giảm 5,76%, gỗ và vật liệu xây dựng giảm 9,66%.
- Doanh thu ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) được 4.223,17 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 12,03%. Đến nay, các ngành dịch vụ vẫn giữ được mức tăng với tốc độ ổn định so với cùng kỳ. Riêng dịch vụ kinh doanh bất động sản tính từ đầu năm có doanh thu tăng đột biến trong tháng 6 do doanh nghiệp thành công ký được các hợp đồng bán đất nền đã góp phần đưa tốc độ tăng chung của toàn ngành dịch vụ tăng cao trong 7 tháng so với cùng kỳ (bất động sản chiếm tỷ trọng 21,95%).
Về xuất, nhập khẩu hàng hóa
Tình hình hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa tháng 7 năm 2023, có sự tăng trưởng khá cao, ước thực hiện tháng 7/2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp thực hiện được 132,47 triệu USD so với tháng trước bằng 99,85% và so với cùng kỳ năm trước bằng 157,05%. Trong đó: Xuất khẩu ước thực hiện được 92,08 triệu USD, so với tháng trước bằng 103,29% và so với cùng kỳ năm trước bằng 164,37%. Nhập khẩu ước thực hiện được 40,39 triệu USD, so với tháng trước bằng 92,80% và so với cùng kỳ năm trước bằng 142,59%.
Lũy kế, 7 tháng năm 2023, hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa trên địa bàn tỉnh Hậu Giang tăng 17,88% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó các doanh nghiệp trong nước chiếm tỷ trọng cao hơn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) (trong nước chiếm 59,35%, doanh nghiệp FDI chiếm khoảng 40,65% tổng giá trị chung).
Về mức tăng trưởng ở mỗi khu vực, mặc dù số lượng doanh nghiệp FDI ít hơn so với các doanh nghiệp trong nước, nhưng giá trị xuất nhập khẩu mà doanh nghiệp FDI tạo ra là tương đương so với doanh nghiệp trong nước.
Về thị trường xuất khẩu trong 7 tháng đầu năm 2023, các doanh nghiệp đã xuất hàng hóa đi được 72 quốc gia và vùng lãnh thổ, so với cùng kỳ năm trước thì số lượng các thị trường xuất khẩu tăng thêm 6 quốc gia (tăng 9,09% so cùng kỳ).
Cơ cấu thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp không có sự thay đổi nhiều so với năm trước, các thị trường xuất khẩu lớn vẫn là Châu Á (khu vực Đông Á và Đông Nam Á) chiếm giá trị lớn nhất, Châu Mỹ (trong đó khu vực Bắc Mỹ) là chủ yếu, Châu Âu khu vực các nước khối liên minh Châu Âu (EU) là chủ yếu. Giá trị xuất khẩu của các khu vực này có sự tăng giảm lẫn nhau so với cùng kỳ năm trước nhưng nhìn chung mức tăng vẫn chiếm ưu thế nhiều hơn. Cụ thể, giá trị xuất khẩu của các khu vực trên so với cùng kỳ năm trước lần lượt là: khu vực Châu Á tăng 7,32% (chiếm tỷ trọng 50,20%), Châu Mỹ tăng 52,58% (chiếm tỷ trọng 30,38%), khu vực Châu Âu giảm 28,66% (chiếm tỷ trọng 12,06%) đây là khu vực xuất khẩu có giá trị giảm nhiều nhất trong 6 tháng đầu năm 2023 so với cùng kỳ năm trước; còn lại là các khu vực khác (chiếm tỷ trọng 7,36%).
Các giải pháp trong những tháng tiếp theo của năm 2023
Tập trung triển khai thực hiện nghiêm túc, quyết liệt, có hiệu quả Nghị quyết của Chính phủ, Tỉnh ủy, HĐND tỉnh về mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh năm 2023. Kế hoạch số 14/KH-UBND ngày 19/01/2023 của UBND tỉnh về thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 06/01/2023 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
- Thực hiện nghiêm Quyết định số 10/2023/QĐ-UBND ngày 28/02/2023 của UBND tỉnh về quy chế làm việc của UBND tỉnh; đồng thời, chủ động rà soát, tham mưu UBND tỉnh trong triển khai thực hiện. Trong đó, tập trung một số nhiệm vụ trọng tâm như sau:
- Tập trung đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công; triển khai thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, 3 Chương trình mục tiêu quốc gia. Tiếp tục tập trung đẩy nhanh tiến độ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, di dời công trình hạ tầng kỹ thuật liên quan đến 02 tuyến cao tốc đi qua địa bàn tỉnh.
- Tiếp tục khẩn trương hoàn thiện hồ sơ Quy hoạch tỉnh Hậu Giang thời kỳ 2021 - 2030, định hướng đến năm 2050, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo đúng quy định.
- Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển thị trường trong nước, kích cầu tiêu dùng và đẩy mạnh xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu. Tiếp tục phối hợp, chuẩn bị tốt các điều kiện tổ chức Hội nghị ngành Công Thương các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam, Hội nghị Khuyến công các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam lần thứ XIII và Hội chợ triển lãm hàng công nghiệp nông thôn tiêu biểu khu vực phía Nam năm 2023 tại tỉnh Hậu Giang.
- Tập trung đẩy nhanh giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến lĩnh vực do ngành Công Thương quản lý; Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị trực thuộc Bộ Công Thương như Cục Xuất nhập khẩu, Cục Xúc tiến thương mại...và các đơn vị có liên quan nhằm hỗ trợ, xử lý kịp thời những vướng mắc gây ách tắc các hoạt động xuất nhập khẩu với thị trường Trung Quốc cũng như các thị trường xuất khẩu khác;
- Thúc đẩy phát triển thị trường trong nước, tăng cường kết nối phát triển thị trường nội bộ giữa các doanh nghiệp và hiệp hội doanh nghiệp trong tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, tìm nguồn cung ứng vật tư, nguyên liệu, chia sẻ công nghệ và kinh nghiệm quản lý;
- Kiến nghị các Bộ ngành có liên quan khuyến khích các doanh nghiệp cung ứng không tăng giá dịch vụ, giá cước vận tải, giá vật tư trong thời gian tới và cố gắng giảm giá, cước phí cho doanh nghiệp;
- Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại trực tuyến thay thế cho các hoạt động truyền thống, theo đó đã nhanh chóng, sáng tạo, ứng dụng thực hiện các mô hình xúc tiến thương mại trực tuyến. Nhiều chương trình xúc tiến thương mại trực tuyến như các hội nghị giao thương trực tuyến, hội chợ triển lãm trực tuyến, ứng dụng công nghệ livestream quảng bá sản phẩm trên các nền tảng số, đã được triển khai thời gian qua.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và người dân. Tuyên truyền, triển khai thực hiện hiệu quả Quyết định số 1256/QĐ-UBND ngày 25/7/2023 của UBND tỉnh ban hành Bộ Chỉ số đánh giá cải cách hành chính và Quy định về đánh giá, xếp loại công tác cải cách hành chính đối với các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh Hậu Giang giai đoạn 2023 - 2030. Tiếp tục rà soát, công bố danh mục, quy trình giải quyết thủ tục hành chính theo quy định, cụ thể: phê duyệt Quy trình nội bộ giải quyết thủ tục hành chính đối với thủ tục “Chấp thuận chủ trương đầu tư của UBND cấp tỉnh”; Quyết định công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung và quy trình nội bộ giải quyết thủ tục hành chính trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý thuộc phạm vi chức năng quản lý của Sở Tư pháp tỉnh Hậu Giang.
- Chỉ đạo tập trung công tác chuyển đổi số. Ủy ban quốc gia về Chuyển đổi số công bố kết quả xếp hạng Chỉ số chuyển đổi số DTI năm 2022 Hậu Giang giữ vị trí 17/63 tỉnh, thành phố. /.
Đinh Thị Bích Liên
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT