TIN TỨC

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Tin tức

Tình hình hoạt động Công nghiệp - Thương mại 6 tháng năm 2023 của ngành Công Thương tỉnh Ninh Bình

02/08/2023

Tình hình sản xuất công nghiệp trong 6 tháng đầu năm 2023 của các doanh nghiệp công nghiệp trong tỉnh vẫn còn gặp khó khăn do nhiều doanh nghiệp không ký được hợp đồng đơn hàng mới, thị trường tiêu thụ sản phẩm bị thu hẹp, tính cạnh tranh trong ngoài nước đều cao, giá nguyên vật liệu đầu vào cho  sản xuất tăng cao... Với sự chỉ đạo, điều hành linh hoạt, sâu sát và quyết liệt của các cấp, các ngành cùng với đó là sự đồng thuận, ủng hộ của cộng đồng doanh nghiệp nên hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh vẫn ghi nhận kết quả tăng trưởng so với cùng kỳ năm trước, tuy nhiên mức không cao.

1. Về  hoạt động công nghiệp

Theo số liệu của Cục Thống kê Ninh Bình, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) toàn tỉnh tháng 6 năm 2023 ước tính tăng  6,30% so với cùng tháng năm trước, trong đó khai khoáng tăng 8,16%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,54%; sản xuất phân phối điện gấp 2,0 lần; cung cấp nước, hoạt động quản xử rác thải, nước thải tăng 7,76%.

Tính chung lại 6 tháng đầu năm 2023 chỉ số IIP toàn tỉnh ước tính tăng 2,19%, trong đó khai khoáng tăng 8,70%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,20%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 11,50%; riêng sản xuất và phân phối điện giảm 1,09%.

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 6 năm 2023 tăng 1,43% so với tháng trước và giảm 4,34% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 19,64% so với 6 tháng năm 2022.

Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 30/6/2023 tăng 12,84% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 76,35% so với cùng thời điểm năm trước.

Chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tháng 6 tăng 0,40% so với tháng trước và giảm 2,75% so với tháng 6/2022. Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp toàn tỉnh giảm 2,61% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: doanh nghiệp Nhà nước tăng 2,02%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm 5,93%; doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài giảm 2,43%.

Tính theo giá so sánh 2010, giá trị sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm nay toàn tỉnh ước đạt 50.985,5 tỷ đồng, tăng 5,8% so với cùng tháng năm trước. Trong đó: khai khoáng đạt 301,2 tỷ đồng, tăng 8,7%; công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 50.026,4 tỷ đồng, tăng 5,8%; sản xuất, phân phối điện đạt 497,2 tỷ đồng, tăng 3,9%; cung cấp nước và hoạt động quản lý, xử lý rác thải đạt 160,7 tỷ đồng, tăng 10,5%.

Các sản phẩm công nghiệp 6 tháng đầu năm mức tăng khá so với cùng  kỳ năm trước gồm: đá các loại 1,7 triệu m3, tăng 8,4%; ngô ngọt đóng hộp 1,6 nghìn tấn, tăng 53,6%; nước dứa tươi 3,0 triệu lít, tăng 7,3%; thức ăn cho gia súc 14,1 nghìn tấn, tăng 20,5%; nước khoáng không có ga 2,1 triệu lít, tăng 13,2%; linh kiện điện tử 55,5 triệu cái, tăng 4,3%; kính máy ảnh 0,9 triệu cái, tăng 35,2%; xe ô tô từ 5 chỗ ngồi trở lên 25,0 nghìn chiếc, tăng 11,6%; ghế ngồi dùng cho xe có động cơ 106,5 nghìn chiếc, tăng 3,4%; bơm tiêm có hoặc không có kim tiêm 92,8 triệu cái, tăng 6,9%; điện sản xuất 264,6 triệu Kwh, tăng 3,1%;    nước máy thương phẩm 14,3 triệu m3, tăng 10,9%...

Tuy nhiên, một số sản phẩm có mức sản xuất giảm sút là: dứa đóng hộp 4,4  nghìn tấn, giảm 20,4%; hàng thêu 0,9 triệu m2, giảm 11,8%; quần áo các loại 30,0 triệu cái, giảm 40,5%; giày dép các loại 27,9 triệu đôi, giảm 15,9%; găng tay 2,5 triệu đôi, giảm 2.5%; phân Ure 0,2 triệu tấn, giảm 6,5%; phân NPK 38,4 nghìn tấn, giảm 23,2%; phân lân nung chảy 69,0 nghìn tấn, giảm 19,2%; kính  nổi 0,2 triệu tấn, giảm 3,5%; xi măng (kể cả clanke) 3,6 triệu tấn, giảm 30,2%; modul camera 113,2 triệu cái, giảm 34,2%; tai nghe điện thoại di động 1,6 triệu cái, giảm 10,5%; xe ô tô chở hàng 3,8 nghìn chiếc, giảm 30,0%; cần gạt nước ô tô 2,5 triệu cái, giảm 54,3%; đồ chơi hình con vật 7,0 triệu con, giảm 27,7%; điện thương phẩm 1,1 tỷ KWh, giảm 6,1%…

Sản lượng tồn kho một số sản phẩm chủ yếu đến 31/5/2023: giầy dép 2,2 triệu đôi; đạm Ure 17,2 nghìn tấn; phân hóa học NPK 31,1 nghìn tấn; phân lân nung chảy 9,4 nghìn tấn; kính nổi 83,0 nghìn tấn; xi măng 25,2 nghìn tấn; thanh, que sắt hoặc thép hợp kim được cán nóng 15,2 nghìn tấn; bản vi mạch điện tử 19,4 triệu chiếc; modul camera 22,2 triệu cái; xe ô tô lắp ráp 2.898 chiếc…

2. Về thương mại, dịch vụ

Tiếp đà phục hồi của các tháng cuối năm 2022, hoạt động thương mại dịch vụ trên địa bàn tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2023 diễn ra sôi động, tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước, đặc biệt các ngành du lịch, dịch vụ lưu trú ăn uống.

Bán lẻ hàng hóa doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức bán lẻ hàng hóa trên thị trường toàn tỉnh trong tháng 6 ước đạt trên 5.365,6 tỷ đồng, tăng 48,3% so với tháng 6 năm 2022. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa toàn tỉnh ước thực hiện gần 31.396,7 tỷ đồng, tăng 42,0% so với cùng kỳ năm 2022. Tất cả các nhóm hàng đều có doanh thu bán lẻ tăng, trong đó một số nhóm có mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ như: lương thực, thực phẩm ước đạt 8.892,6 tỷ đồng, tăng 66,9%; hàng may mặc 2.136,7 tỷ đồng, tăng 58,3%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình 3.048,4 tỷ  đồng, tăng 43,2%; vật phẩm văn hóa, giáo dục 344,3 tỷ đồng, tăng 50,1%; nhiên liệu khác (trừ xăng, dầu) 272,6 tỷ đồng, tăng 44,1%; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 944,3 tỷ đồng, tăng 50,2%; hàng hóa khác 684,5 tỷ đồng, tăng 48,5%.

Du lịch tiếp tục phục hồi và phát triển mạnh mẽ, lượng khách du lịch đến Ninh Bình tăng cao điều kiện quan trọng thúc đẩy tăng trưởng đối với các  hoạt động kinh doanh khách sạn, nhà hàng và dịch vụ du lịch. Trong tháng 6, doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống toàn tỉnh ước đạt trên 699,8 tỷ đồng, tăng 66,6% so với tháng 6 năm 2022; doanh thu từ hoạt động du lịch lữ hành ước đạt 8,1  tỷ đồng, gấp gần 4,1 lần; doanh thu từ một số ngành dịch vụ khác ước đạt 503,9 tỷ đồng, tăng 57,4%. Trong 6 tháng đầu năm nay, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 4.144,3 tỷ đồng, tăng 91,9% so với thực hiện 6 tháng 2022; doanh thu du lịch lữ hành 15,9 tỷ đồng, gấp 4,4 lần; doanh thu một số ngành dịch vụ khác 3.006,3 tỷ đồng, tăng 63,6%.

Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Xuất khẩu: Giá trị xuất khẩu tháng 6 ước đạt gần 269,0 triệu USD, tăng 12,3% so với tháng 6 năm 2022. Tổng giá trị xuất khẩu 6 tháng đầu năm ước đạt 1.530,0 triệu USD, giảm 3,3% so với cùng kỳ năm trước, đạt 47,1% so với Kế hoạch năm. Một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn là: quần áo các loại 149,4 triệu USD; xi măng, clanke 377,5 triệu USD; giầy dép các loại 382,3 triệu USD; camera và linh kiện điện thoại 324,9 triệu USD; linh kiện điện tử 49,2 triệu USD; phôi nhôm 37,8 triệu USD; linh kiện, phụ tùng ô tô các loại 38,2 triệu USD.

Trong 6 tháng, chỉ một số ít mặt hàng giữ được tăng trưởng khá so với cùng kỳ như: phân ure 34,7 tấn, gấp 38,6 lần; xi măng, clanke 8.891,8 nghìn tấn, tăng 53,6%; hàng thêu ren 55,2 nghìn sản phẩm, tăng 9,2%; phôi nhôm 13,8 nghìn tấn, tăng 10,3%; linh kiện, phụ tùng ô tô các loại 38,2 triệu USD, tăng 51,4%. Còn lại hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đều giảm sút so với cùng kỳ, một số mặt hàng giảm khá sâu như: dứa, dưa chuột đóng hộp 4.831,9 tấn, giảm 49,7%; quần áo các loại 30,3 triệu chiếc, giảm 30,7%; giầy dép các loại 29,2 triệu đôi, giảm 28,6%; camera linh kiện 107,4 triệu sản phẩm, giảm 41,2%; đồ chơi trẻ em 4.283,5 nghìn chiếc, giảm 19,9%; thảm cói 59,5 nghìn m2, giảm 32,5%; sản phẩm cói khác 682,1 nghìn sản phẩm, giảm 30,3%.

Nhập khẩu: Giá trị nhập khẩu tháng 6 ước đạt 260,6 triệu USD, tăng 5,2% so với cùng tháng năm trước. Tổng giá trị nhập khẩu 6 tháng năm nay ước đạt 1.392,8 triệu USD, giảm 18,4% so với cùng kỳ năm trước, đạt 42,2% Kế hoạch năm. Trong đó giá trị các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là: vải may mặc 62,2 triệu USD; phụ liệu sản xuất giầy dép 277,2 triệu USD; linh kiện điện tử 378,1 triệu USD; linh kiện ô tô các loại 433,0 triệu USD; ô tô 45,9 triệu USD.

3. Nhiệm vụ những tháng cuối năm 2023

Để đạt được những kết quả như trên là nhờ sự chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền các cấp, trực tiếp là Sở Công Thương đã điều hành linh hoạt, sâu sát và quyết liệt cùng với đó là sự đồng thuận, ủng hộ của cộng đồng doanh nghiệp tỉnh. Thời gian từ giờ tới cuối năm có nhiều nhiệm vụ khó khăn đối với ngành Công Thương cũng như các doanh nghiệp, trước hết tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm: Thường xuyên nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm chủ yếu để kịp thời đề xuất các giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; tiếp tục khảo sát, nắm bắt tình hình đầu tư, hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ đầu tư hạ tầng và các doanh nghiệp thứ cấp trong các cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Phối hợp hỗ trợ các doanh nghiệp về thu hút lao động, việc làm, thị trường xuất khẩu, thủ tục thông quan và các thủ tục hành chính có liên quan,... Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, tổ chức và doanh nghiệp.

Tích cực tham mưu cho UBND tỉnh công tác hướng tuyến đường dây 220kV Gia Viễn - Nam Định và vị trí đặt trạm biến áp 220kV Gia Viễn phục vụ cho tháo dỡ trạm 220kV Ninh Bình và các xuất tuyến đường dây, thực hiện kiểm tra công tác nghiệm thu đối với chủ đầu tư trước khi đưa công trình xây dựng đường dây và trạm biến áp vào sử dụng.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với các đơn vị sản xuất, tiếp tục triển khai và hoàn thành Kế hoạch kiểm tra, hậu kiểm an toàn thực phẩm thuộc lĩnh vực Công Thương trên địa bàn tỉnh Ninh Bình năm 2023. Triển khai có hiệu quả công tác khuyến công, xúc tiến thương mại, chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ năm 2023; hoàn thành xây dựng đề án khuyến công địa phương và quốc gia năm 2024.

Nhằm duy trì sự phát triển ổn định, bền vững trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, ngành Công Thương Ninh Bình xác định công tác quy hoạch, định hướng phát triển có vai trò đặc biệt quan trọng. Đề xuất UBND tỉnh phương án phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh theo tinh thần của Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 11/10/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ.

Bên cạnh đó, tiếp tục phối hợp với Viện Nghiên cứu Chiến lược Chính sách Công Thương tiếp thu, hoàn thiện “Đề án cơ cấu lại ngành công nghiệp tỉnh Ninh Bình đến năm 2030, định hướng đến năm 2050”, sớm hoàn thiện, báo cáo UBND tỉnh xem xét, ban hành làm cơ sở triển khai thực hiện./.

Nguyễn Kiều Ly

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT

TIN KHÁC