Nhìn chung toàn ngành công thương của tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2023 vẫn ổn định và đạt mức tăng trưởng cao hơn cùng kỳ năm trước, hầu hết các ngành, lĩnh vực đều tăng trưởng dương, đáng chú ý là các ngành dịch vụ và công nghiệp đều đạt mức tăng tương đối cao. Một số doanh nghiệp chủ động, tích cực khắc phục những khó khăn về điều kiện nguyên vật liệu đầu vào, mở rộng, tìm kiếm thị trường mới, khơi thông thị trường đầu ra; hạn chế cắt giảm quy mô sản xuất và lao động, triển khai thực hiện kịp thời các hợp đồng cung ứng... đã góp vào tăng trưởng chung của toàn ngành công thương trong những tháng đầu năm 2023 cụ thể như sau:
1. Sản xuất Công nghiệp
Theo số liệu của Cục Thống kê Kiên Giang, tháng 6 chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) ước tính tăng 2,27% so tháng trước, tăng 13,74% so cùng tháng năm trước. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 15,16%; ngành khai khoáng tăng 10,13%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước giảm 1,37%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,89%. Tính chung 6 tháng, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 12,46% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng tăng 8,91%; ngành chế biến, chế tạo tăng 13,64%.
Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010): Tháng 6 ước tính đạt 4.296,49 tỷ đồng, tăng 2,46% so với tháng trước, tăng 8,15% so với cùng tháng năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm, ước đạt 22.197,33 tỷ đồng, bằng 46,07% kế hoạch năm, tăng 10,24% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 10,37%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, hơi nước tăng 8,40%; ngành cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 5,73% và ngành khai khoáng tăng 11,58%.
Một số sản phẩm công nghiệp 6 tháng đầu năm 2023, đạt mức kế hoạch năm khá cao và tăng so cùng kỳ như: Giày da đạt 55,32%, tăng 24,25%; tôm đông lạnh đạt 58,40%, tăng 15,65%; … Nhưng cũng có một số sản phẩm đạt kế hoạch năm còn thấp và giảm so cùng kỳ như: Gạch không nung đạt 36,30%, giảm 65,35%; bia đạt 28,55%, giảm 41,67%; Clinker đạt 44,97%, giảm 5%,...
Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tháng 6 tăng 2,04% so với tháng trước, trong đó: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 1,59%, sản xuất đồ uống tăng 44,59%. Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số tiêu thụ giảm 0,49% so với cùng kỳ, trong đó sản xuất chế biến thực phẩm tăng 5,24%; sản xuất đồ uống giảm 32,86%.
Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến chế tạo ước tính tháng 6 bằng 99,31% so với tháng trước, trong đó ngành sản xuất chế biến thực phẩm bằng 99,50%, sản xuất đồ uống bằng 100%. So với cùng kỳ năm trước, chỉ số tồn kho bằng 65,48%; trong đó, sản xuất chế biến thực phẩm bằng 60,74%, sản xuất đồ uống bằng 62,57%.
Chỉ số sử dụng lao động của ngành công nghiệp tháng 6, tăng 3,55% so với tháng trước và giảm 4,90% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính 6 tháng đầu năm giảm 7,55% so cùng kỳ năm trước.
2. Hoạt động thương mại, dịch vụ
Trong tháng 6, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh thương mại, dịch vụ, vận tải trên địa bàn tỉnh khá sôi động do bắt đầu vào thời gian nghỉ hè nên lượng khách đến tham quan du lịch tại các điểm du lịch tăng lên, kéo theo các dịch vụ vận tải, ăn uống, lưu trú, … cũng tăng. Thị trường hàng hóa, dịch vụ luôn đảm bảo đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng, giá cả không có nhiều biến động. Ước tính tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm nay tăng hơn 21% so với cùng kỳ năm trước:
Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 6 ước đạt gần 11.768 tỷ đồng, tăng 3,75% so tháng trước, tăng 20,82% so cùng tháng năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm, ước tính đạt trên 68.101 tỷ đồng, bằng 58,13% kế hoạch năm, tăng 21,57% so cùng kỳ.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 6 ước đạt 7.149,74 tỷ đồng, tăng 3,57% so với tháng trước, tăng 23,96% so cùng tháng năm trước. Tính chung 6 tháng ước tính đạt 40.080,83 tỷ đồng, bằng 51,25% kế hoạch năm, tăng 16,11% so cùng kỳ năm trước.
Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa tháng 6 ước đạt 101,37 triệu USD, tăng 6,56% so với tháng trước, tăng 9,61% so cùng tháng năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm, đạt 488 triệu USD, đạt 47,84% kế hoạch năm và tăng 1,81% so cùng kỳ năm trước (trong đó xuất khẩu 410 triệu USD, tăng 1,18%; nhập khẩu 78 triệu USD, tăng 5,23%).
Xuất khẩu tháng 6 ước đạt 85,90 triệu USD, tăng 1,85%16 so với tháng trước và tăng 8,47% so cùng tháng năm trước. Tính chung 6 tháng, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính 410 triệu USD, đạt 47,67% kế hoạch năm, tăng 1,18% so với cùng kỳ năm trước.
Nhập khẩu tháng 6 ước đạt 15,47 triệu USD, tăng 43,37% so với tháng trước và tăng 16,40% so tháng cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm, ước tính đạt 78 triệu USD, đạt 48,75% kế hoạch năm, tăng 5,23% so với cùng kỳ năm trước. Các mặt hàng nhập khẩu, chủ yếu vẫn là nguyên liệu dùng cho sản xuất.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6 tăng 0,28% so với tháng trước. Trong đó: Khu vực thành thị tăng 0,20%, khu vực nông thôn tăng 0,32%. Có 10/11 nhóm tăng giá và duy nhất có nhóm bưu chính viễn thông bình ổn giá. Trong đó, nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng cao nhất với mức tăng 0,61%; kế đến là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,52% (trong đó ăn uống ngoài gia đình tăng 0,61%); nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,26%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,20%; nhóm giao thông tăng 0,18%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,14%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,07%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 0,05%; nhóm giáo dục, nhóm văn hóa, giải trí và du lịch đều có mức tăng là 0,01%.
So với tháng 12 năm trước (sau 6 tháng) chỉ số giá tiêu dùng tăng 1,18%. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có nhóm Bưu chính viễn thông là bình ổn giá (bằng 100%), còn lại tất cả các nhóm khác đều tăng giá. Trong đó nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng cao nhất với mức tăng 2,64%; kế đến là nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 2,64%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 2,49%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,21%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 2,10%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 1,81%; nhóm giao thông tăng 0,77%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,48% (trong đó ăn uống ngoài gia đình tăng 2,30%).
3. Công tác quản lý thị trường
Công tác quản lý thị trường luôn được tăng cường, để đảm bảo thị trường ổn định. 6 tháng đầu năm hoạt động mua, bán hàng hóa diễn ra bình thường, không có hiện tượng khan hiếm hàng hóa hay tăng giá bất hợp lý. Giá nhiên liệu xăng, dầu 6 tháng đầu năm điều chỉnh 17 lần (tăng 08 lần, giảm 08 lần, xăng 01 lần giữ nguyên giá, dầu tăng).
Trong 6 tháng, ngành Quản lý thị trường (QLTT) đã kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm 578 vụ, đạt 144,50% kế hoạch năm (trong đó: Kế hoạch định kỳ 382 vụ, chuyên đề 04 vụ, đột xuất 132 vụ); tăng 62 vụ (tăng 12%) so với cùng kỳ năm 2022; phát hiện 144 vụ vi phạm; xử lý 177 vụ vi phạm hành chính (bao gồm kỳ trước chuyển sang), tăng 54 vụ (tăng 44%) so cùng kỳ, trong đó thẩm quyền của QLTT 169 vụ, thẩm quyền của UBND các cấp 08 vụ. Tổng số tiền thu phạt hơn 6,29 tỷ đồng (trong đó: Phạt hành chính hơn 4,09 tỷ đồng, bán hàng hóa tịch thu hơn 2,19 tỷ đồng. Các vụ vi phạm chủ yếu là vi phạm về bán, vận chuyển, lưu trữ hàng cấm, hàng nhập lậu, hàng giả, vi phạm sở hữu trí tuệ; gian lận thương mại và vi phạm khác. Các mặt hàng trọng điểm (nhóm hành vi vi phạm phổ biến) như thuốc lá, xăng dầu, LPG, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thực phẩm, ... Các vụ việc vi phạm phát hiện đều được xử lý kịp thời, đúng quy định.
4. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp
Mặc dù địa phương đã triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ cho doanh nghiệp sau dịch Covid-19, nhưng hoạt động của phần lớn doanh nghiệp vẫn đang gặp khó khăn. 6 tháng đầu năm, số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và số lượng doanh nghiệp hoạt động trở lại đều giảm, doanh nghiệp tạm ngưng lại tăng lên.
Tính đến ngày 15 tháng 6 năm 2023, số doanh nghiệp được thành lập mới là 708 doanh nghiệp, với tổng số vốn đăng ký là 16.640,30 tỷ đồng, giảm 21,07% về số lượng và tăng 44,38% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ. Vốn đăng ký bình quân trên một doanh nghiệp trong 6 tháng đầu năm đạt 23,50 tỷ đồng, tăng 82,87% so cùng kỳ, đây là tín hiệu tốt cho thấy quy mô vốn của doanh nghiệp đang có xu hướng tăng lên.
6 tháng có 245 doanh nghiệp hoạt động trở lại, giảm 12% so với cùng kỳ; 103 doanh nghiệp thực hiện thủ tục giải thể tự nguyện, giảm 27,46% so với cùng kỳ; 524 doanh nghiệp đăng ký tạm ngưng hoạt động có thời hạn, tăng 10,32% so với cùng kỳ. Lũy kế theo đăng ký đến cuối tháng 6 trên địa bàn tỉnh có 12.018 doanh nghiệp hoạt động với số vốn đăng ký là 210.523,90 tỷ đồng.
Để hoàn thành kế hoạch trong năm 2023, trong thời gian tới Sở Công Thương tỉnh Kiên Giang cần chủ trì, phối hợp các sở, ngành, địa phương có liên quan rà soát tình hình đầu tư, sản xuất, kinh doanh của các dự án công nghiệp trọng điểm trên địa bàn tỉnh; tích cực, chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc còn tồn tại của các dự án để sớm đưa vào vận hành, khai thác nhằm gia tăng năng lực sản xuất mới và nâng cao giá trị sản xuất công nghiệp; thực hiện có hiệu quả các chương trình xúc tiến thương mại trong và ngoài nước nhằm tạo điều kiện, hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm và mở rộng thị trường mới để thay thế những thị trường đang suy giảm đơn hàng trong ngắn hạn, chờ sự phục hồi của thị trường truyền thống.
Tiếp tục nâng cao vai trò chỉ đạo trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp về phục hồi sản xuất công nghiệp. Thường xuyên rà soát nắm bắt tình hình hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu trọng điểm trên địa bàn tỉnh, tham mưu cấp thẩm quyền xử lý, tháo gỡ kịp thời cho các doanh nghiệp trong tỉnh để đẩy mạnh sản xuất công nghiệp và xuất khẩu trong những tháng cuối năm; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng kém chất lượng, niên yết giá và bán hàng theo giá niêm yết,… góp phần ổn định thị trường.
Sở Công thương tham mưu UBND tỉnh Kiên Giang kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo sớm triển khai đầu tư xây dựng hoàn thành việc kéo điện lưới quốc gia ra hai xã đảo An Sơn và Nam Du (Kiên Hải) theo chỉ đạo tại Thông báo số 99/TB-VPCP, ngày 5-4-2022 của Văn phòng Chính phủ./.
Nguyễn Kiều Ly
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT