TIN TỨC

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Tin tức

Kết quả thực hiện kế hoạch ngành Công Thương Thanh Hóa 6 tháng đầu năm, nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2023

25/07/2023

I. Kết quả thực hiện kế hoạch 6 tháng đầu năm

1. Những kết quả đạt được:

1.1. Sản xuất công nghiệp

Theo báo cáo của Sở Công Thương, hoạt động sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2023 tiếp tục ổn định và phát triển, đặc biệt có sự tăng trưởng cao dần vào các tháng cuối của quý II, có 16/25 sản phầm chủ yếu có sản lượng tăng so với cùng kỳ, trong đó có một số sản phẩm tăng mạnh như: Sắt thép các loại tăng 88,57%; thức ăn gia súc tăng 93,88%; benzen tăng 61,41%... Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng khoảng 7,1% so với cùng kỳ, giá trị sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2023 (giá SS 2010) ước đạt 105.531 tỷ đồng, tăng 17,05% so với cùng kỳ.

Cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp chuyển dịch phù hợp với định hướng phát triển của tỉnh; trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo luôn chiếm tỷ trọng chi phối trong giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh, giá trị sản xuất công nghiệp chế biến chế tạo 6 tháng đầu năm 2023 (giá SS 2010) ước đạt 97.826 tỷ đồng, tăng 6,51% so với cùng kỳ và chiếm 92,7% so với giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh với sản phẩm chủ lực là các sản phẩm công nghiệp hóa dầu, hóa chất, nhựa cơ bản phát triển ổn định đóng vai trò lớn, có tính chất thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững của công nghiệp tỉnh Thanh Hóa, với hạt nhân là các sản phẩm của Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn, công suất 10 triệu tấn dầu thô/năm, 6 tháng đầu năm năm 2023 sản lượng sản phẩm: Xăng động cơ ước đạt 1,4 triệu tấn (tăng 3,7% so cùng kỳ); Dầu và mỡ bôi trơn ước đạt 3,2 triệu tấn (tăng 36,17% so cùng kỳ); Dầu nhiên liệu đạt 2,1 triệu tấn (tăng 9,66% so với cùng kỳ). Điện năng thương phẩm 6 tháng năm 2023 dự kiến đạt 3,446 tỷ kWh; tăng 4,59% so với cùng kỳ; bằng 41,03% so với kế hoạch.

Sản lượng điện sản xuất 6 tháng đầu năm dự kiến đạt 5,905 tỷ kWh; tăng 39,39% so với cùng kỳ; đạt 72,02% kế hoạch. Tuy nhiên, do diễn biến thủy văn bất lợi và ảnh hưởng của hiện tượng El Nino nên lượng nước đổ về các hồ chứa thủy điện rất thấp, làm sản lượng phát điện của các nhà máy thủy điện chỉ đạt khoảng 35 - 50% so với cùng kỳ; ngoài ra, Tổ máy số 2 của Nhà máy Nhiệt điện Nghi Sơn 2 gặp sự cố kỹ thuật từ ngày 04/5/2023 (dự kiến đến tháng 7/2023 mới khắc phục xong) đã làm ảnh hưởng đáng kể đến sản lượng cung cấp điện của tỉnh lên hệ thống lưới điện quốc gia.

1.2. Hoạt động thương mại

a) Xuất khẩu: Tổng giá trị xuất khẩu tháng 6 năm 2023 ước đạt 545,108 triệu USD; tăng 5,9% so với tháng trước và bằng 95,4% so với tháng cùng kỳ; luỹ kế tổng giá trị xuất khẩu 6 tháng năm 2023 ước đạt 2.513,9 triệu USD bằng 93,3% so với cùng kỳ và bằng 45,71% so với kế hoạch năm. Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm trên 89% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh, tuy nhiên do tình hình khó khăn chung của thị trường xuất khẩu nên kim ngạch xuất khẩu các doanh nghiệp FDI bằng 95,9% so với cùng kỳ. Các doanh nghiệp FDI sản xuất hàng xuất khẩu chủ yếu thuộc lĩnh vực hàng may mặc, giầy dép, xi măng, giấy vàng mã, lông mi giả, tóc giả….

Tổng số doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2023 là 212 doanh nghiệp tăng 27 doanh nghiệp so với năm 2022; hàng hoá xuất khẩu sang 68 thị trường, tăng 06 thị trường so với năm 2022, với 55 chủng loại hàng hóa.

Tình hình xuất khẩu của một số mặt hàng chủ yếu 6 tháng đầu năm 2023: Tinh bột sắn xuất khẩu đạt 32.432 tấn tăng 5% so với cùng kỳ; chả cá Surimi XK đạt 2.082 tấn tăng 70,4% so với cùng kỳ; bột cá XK đạt 13.602 tấn tăng 38,5% so với cùng kỳ; dăm gỗ XK đạt 191 nghìn m3 bằng 26,6% so với cùng kỳ; hàng may mặc XK đạt 176.401 nghìn sản phẩm bằng 79,8% so với cùng kỳ; giầy dép các loại XK đạt 113.862 nghìn đôi bằng 92,5% so với cùng kỳ; xi măng XK đạt 472.526 tấn bằng 75,9% so với cùng kỳ; lưu huỳnh dạng hạt đạt 139.926 tấn tăng 39,6% so với cùng kỳ; Benzen đạt 40.558 tấn bằng 61,8% so với cùng kỳ; P-Xylen đạt 150.386 tấn bằng 75,8% so với cùng kỳ…

b) Nhập khẩu: Tổng giá trị nhập khẩu tháng 6 năm 2023 ước đạt 835,509 triệu USD tăng 4,7% so với tháng trước và bằng 83,9% so với tháng cùng kỳ; tổng giá trị nhập khẩu 6 tháng năm 2023 ước đạt 4.345,967 triệu USD bằng 99,7% so với cùng kỳ.

Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu 6 tháng đầu năm 2023 là: Nguyên phụ liệu sản xuất tân dược 4,79 triệu USD bằng 82% so với cùng kỳ; dầu thô 4.795 nghìn tấn tăng 24,5% so với cùng kỳ; Vải may mặc 193,446 triệu USD bằng 89,7% so với cùng kỳ; Phụ liệu hàng may mặc 31,511 triệu USD bằng 76,6% so với cùng kỳ; Phụ liệu giầy dép 119,377 triệu USD bằng 75,9% so với cùng kỳ; Máy móc thiết bị phụ tùng 247,503 triệu USD bằng 87,6% so với cùng kỳ; hàng hóa khác 41,533 triệu USD bằng 43,4% so với cùng kỳ.

c) Thương mại nội địa

Thị trường hàng hóa, nhất là các mặt hàng thiết yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng của người dân phong phú, đa dạng, giá cả ổn định, không có hiện tượng đầu cơ, tăng giá làm ảnh hưởng xấu đến thị trường trong các dịp lễ Tết và trong hoạt động kinh doanh dịch vụ cho du khách trong đợt cao điểm du lịch lễ hội, du lịch hè. Hoạt động thương mại điện tử, chuyển đổi số duy trì phát triển tốt, đặc biệt là thương mại điện tử ngày càng có vai trò lớn, công tác chuyển đổi mô hình quản lý kinh doanh khai thác chợ tiếp tục được các địa phương quan tâm, đôn đốc thực hiện theo kế hoạch giai đoạn 2022 - 2025 và kế hoạch năm 2023. Hoạt động thu hút đầu tư dự án thương mại được quan tâm, thu hút các sản phẩm dịch vụ chất lượng cao, có giá trị gia tăng lớn (dịch vụ du lịch, nghỉ dưỡng, chăm sóc sức khỏe, thẩm mỹ,…); gắn kết giữa sản xuất với phân phối hàng hóa, liên kết trong chuỗi giá trị ngày càng phổ biến và được nhà nước định hướng, quan tâm, hỗ trợ. Hiện nay, Sở Công Thương đang xây dựng Đề án Tăng cường kết nối nông nghiệp và công nghiệp chế biến nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và nâng cao giá trị hàng hóa xuất xứ trong tỉnh. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 06 tháng đầu năm năm 2023 ước đạt 86.500 tỷ đồng, tăng 2,9% so với cùng kỳ.

2. Những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân:

2.1. Những khó khăn, hạn chế

- Sản lượng một số sản phẩm công nghiệp truyền thống có xu hướng giảm so với cùng kỳ như: đường kết tinh, bia, xi măng, tinh bột sắn...; khả năng cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp truyền thống còn thấp; một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu là nhận gia công sản phẩm như da giầy, dệt may do đó giá trị gia tăng thấp; một số dự án công nghiệp hiệu quả chưa cao, công tác quản lý môi trường còn chưa được chú trọng; chưa thu hút được nhiều dự án đầu tư có hàm lượng khoa học công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn như: Điện, điện tử, công nghệ thông tin và viễn thông

- Các loại hình dịch vụ thương mại dần đa dạng hóa nhưng tỷ trọng giá trị trao đổi hàng hóa giữa các loại hình dịch vụ thương mại chưa đồng đều; hạ tầng thương mại có nhiều chuyển biến tích cực nhưng chưa tạo được bước đột phá để cùng với các hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội khác tạo nên hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại.

- Tốc độ tăng trưởng và giá trị chỉ tiêu tổng mức bán lẻ hàng hoá phát triển nhanh nhưng không ổn định, có mức biến động lớn giữa các năm.

- Hoạt động quản lý nhà nước về thương mại còn nhiều bất cập, không đồng bộ, thống nhất hoặc chưa có điều chỉnh hướng dẫn phù hợp với nhu cầu, tình hình phát sinh trong thực tiễn. Đồng thời, tác động đến việc huy động các nguồn lực đầu tư phát triển hạ tầng thương mại gặp nhiều khó khăn vướng mắc, bất cập về thủ tục đầu tư, công tác giải phóng mặt bằng; nhất là lĩnh vực xã hội hóa đầu tư xây dựng chợ.

- Tiến độ đầu tư hạ tầng KCN, CCN chậm, chưa đáp ứng đủ nhu cầu của các nhà đầu tư thứ cấp vào các KCN, CCN. Thiếu quỹ đất dành cho đầu tư phát triển lĩnh vực công thương, công tác GPMB chậm chễ, kéo dài nhiều năm mà chưa được sự quan tâm đúng mức của các ngành, các cấp đặc biệt là chính quyền địa phương.

- Tình hình thiếu điện cho sản xuất và sinh hoạt ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, đặc biệt là tại các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung số lượng doanh nghiệp lớn.

2.2. Nguyên nhân của những khó khăn, hạn chế

- Các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghiệp truyền thống đa số có công nghệ lạc hậu, chậm đổi mới cải tiến, tái cơ cấu, vùng nguyên liệu bị thu hẹp nên chi phí sản xuất, hiệu quả thấp dẫn đến chất lượng và giá thành khó cạnh tranh trên thị trường.

- Một số dự án lớn có hàm lượng khoa học công nghệ và giá trị gia tăng cao chậm tiến độ so với kế hoạch dẫn đến số lượng sản phẩm công nghiệp mới còn hạn chế.

- Việc thu hút đầu tư các dự án công nghiệp và thương mại lớn gặp khó khăn do chính sách ưu đãi trong thu hút đầu tư của tỉnh chưa đủ hấp dẫn, cũng như việc phải chịu sự cạnh tranh quyết liệt của các địa phương khác trong thu hút các dự án đầu tư lớn.

- Công tác GPMB chậm và các vấn đề bất cập, chồng chéo trong thể chế, chính sách dẫn đến tiến độ thu hút đầu tư và đầu tư hạ tầng KCN, CCN chậm. Việc phân khai tỷ lệ đất dành cho công nghiệp thương mại chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế, đồng thời chưa phù hợp với quy hoạch lĩnh vực tích hợp trong Quy hoạch tỉnh dẫn đến khó khăn trong việc triển khai đầu tư dự án, thậm chí không có đất để đầu tư, mặc dù dự án đã được chấp thuận chủ trương đầu tư.

- Công tác phát triển thị trường, xúc tiến thương mại còn gặp khó khăn, dẫn đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa chưa bền vững, chưa mở rộng thêm nhiều thị trường mới, sản phẩm mới. - Hiện tượng thiếu điện cục bộ tại một số khu vực vào một số thời điểm do nhu cầu tiêu thụ tăng đột biến, đồng thời sản lượng điện thương phẩm thiếu hụt do điều độ từ Trung tâm hệ thống điều độ Quốc gia và phân bổ của Tổng công ty Điện lực Miền Bắc.

II. Nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2023

1. Dự báo tình hình các yếu tố quốc tế, trong nước và trong tỉnh tác động đến việc thực hiện kế hoạch ngành Công Thương.

Các yếu tố chính trị và căng thẳng thương mại giữa các nước lớn tiếp tục ảnh hưởng đến thị trường các mặt hàng thiết yếu; giá xăng dầu, khí dầu mỏ hóa lỏng diễn biến tăng giảm đan xen. Trong nước, giá điện được điều chỉnh tăng 3% từ ngày 04/5/2023 sẽ tác động giá hàng hóa, nhất là một số mặt hàng sử dụng nhiều điện cho sản xuất như thép, giấy, xi măng… trong thời gian tới, sẽ tiếp tục ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Nhu cầu du lịch, dịch vụ tiếp tục tăng trong dịp hè; tuy nhiên, do nguồn cung các mặt hàng tương đối dồi dào nên cung cầu sẽ được đảm bảo, mặt hàng giá hàng hóa sẽ không có biến động lớn. Hoạt động sản xuất, kinh doanh tiếp tục gặp khó khăn, thách thức dẫn đến tạo việc làm, tăng thu nhập cho dân cư có mức độ tăng trưởng không cao; yếu tố tâm lý tiêu dùng của người dân xu hướng ổn định, tích lũy; qua đó dự báo nhu cầu hàng hóa và sử dụng dịch vụ của người dân trong nước nói chung và tỉnh nói riêng tiếp tục tăng trưởng nhưng tốc độ tăng trưởng so với năm 2022 sẽ không cao như kỳ vọng. Hoạt động đầu tư và xuất khẩu của tỉnh dự kiến sẽ bắt đầu khởi sắc từ quý III/2023 do các yếu tố thuận lợi xuất hiện như: tiến độ các dự án đầu tư công được đẩy nhanh, đầu tư khu vực dân cư sẽ tăng nhanh vào những tháng cuối năm, các thị trường xuất khẩu có dấu hiệu khôi phục,….

2. Các chỉ tiêu phát triển ngành Công thương trong 6 tháng cuối năm 2023.

2.1. Sản xuất công nghiệp

Năm 2023, hoạt động sản xuất công nghiệp đối mặt với nhiều khó khăn mà nguyên nhân kéo dài từ năm 2022, chưa thể khắc phục triệt để; các chỉ tiêu về sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm tuy có sự tăng trưởng so với cùng kỳ, nhưng nhìn chung vẫn thấp so với kế hoạch năm (Giá trị SXCN ước đạt 105.531/230.000 tỷ đồng, Chỉ số SXCN ước đạt 7,1%/10%), điều này sẽ tạo áp lực rất lớn đối với việc hoàn thành kế hoạch trong 6 tháng cuối năm 2023. Vì vậy, để hoàn thành kế hoạch chỉ tiêu về sản xuất công nghiệp, Sở Công Thương sẽ tập trung chỉ đạo và thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm như:

- Hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp hiện có tập trung sản xuất tối đa công suất trên cơ sở đảm bảo thị trường tiêu thụ; khuyến khích các cơ sở sản xuất có thị trường tiêu thụ tốt, nâng công suất, mở rộng sản xuất để bù đắp sản lượng cho các cơ sở gặp khó khăn.

 - Tiếp tục hỗ trợ, động viên các chủ đầu tư đang đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất, đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng, phấn đấu đưa các dự án đầu tư vào hoạt động đúng kế hoạch trong năm, góp phần đóng góp chung vào sản lượng và giá trị sản phẩm công nghiệp của tỉnh.

- Tiếp tục hỗ trợ các nhà đầu tư hạ tầng cụm công nghiệp; các địa phương trong việc khôi phục và duy trì các làng nghề tiểu thủ công nghiệp để sớm hoàn thiện đầu tư hạ tầng cụm công nghiệp, thu hút các nhà đầu tư thứ cấp đầu tư sản xuất kinh doanh trong các cụm công nghiệp, phát triển hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp tạo việc làm và gia tăng tỷ trọng giá trị sản xuất trong giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh.

2.2. Hoạt động thương mại:

- Đối với hoạt động xuất khẩu: để hoàn thành kế hoạch xuất khẩu năm 2023, dự kiến 6 tháng cuối năm giá trị xuất khẩu phải đạt được 2.986,051 triệu USD (tương đương 54,29% kế hoạch năm). Những tháng cuối năm, Sở Công Thương sẽ tập trung thực hiện các giải pháp khơi thông thị trường xuất khẩu, hỗ trợ doanh nghiệp khôi phục thị trường cũ, tiếp cận thị trường mới, đa dạng hóa thị trường, tiếp tục tổ chức các lớp tập huấn kiến thức các Hiệp định thương mại tự do, phối hợp với các tham tán thương mại Việt Nam tại nước ngoài tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường, đối tác cho các doanh nghiệp. Theo chu kỳ xuất khẩu hằng năm, các tháng cuối năm sẽ là dịp cao điểm xuất khẩu của các doanh nghiệp, nên dự kiến việc hoàn thành kế hoạch xuất khẩu sẽ khả thi cao.

- Hoạt động thương mại 6 tháng đầu năm tiếp tục duy trì phát triển tốt so với cùng kỳ (6 tháng đầu năm đã đạt 49,43% kế hoạch) sẽ tạo tiền đề tốt cho việc hoàn thành kế hoạch năm 2023 (6 tháng cuối năm Tổng mức bán lẻ hàng hóa chỉ cần đạt 88.500 tỷ đồng, tương đương 50,57% kế hoạch). Sở Công Thương sẽ tập trung chỉ đạo các giải pháp kích cầu tiêu dùng, đẩy mạnh hoạt động tiêu dùng bằng phương thức thương mại điện tử, tăng cường kết nối từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ, đẩy nhanh quá trình chuyển đổi mô hình quản lý kinh doanh khai thác chợ tại các địa phương, triển khai có hiệu quả các chương trình đưa hàng Việt về nông thôn, người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam,… Theo chu kỳ hằng năm, các tháng cuối năm sẽ là dịp cao điểm tiêu dùng của dân cư, nên dự kiến việc hoàn thành kế hoạch Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng sẽ khả thi cao./.

Trần Thị Thúy Hằng

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT

TIN KHÁC