Ngành công thương tỉnh Bình Phước 6 tháng đầu năm 2023 đang từng bước phục hồi, nối lại được các chuỗi cung ứng trong các nhóm ngành với sản lượng sản phẩm và số lượng đơn hàng mới tăng. Quy mô sản xuất công nghiệp tiếp tục mở rộng, cùng với sự vào cuộc quyết liệt của tỉnh trong chỉ đạo, điều hành và triển khai các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, mức đạt 5% so với cùng kỳ năm trước.
Tại tỉnh Bình Phước, chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành tăng khoảng 6,8% so với cùng kỳ. Điều đáng chú ý là hầu hết các sản phẩm chủ yếu hoạt động sản xuất, kinh doanh ở địa phương đều tăng. Giá trị hàng hóa xuất khẩu đạt hơn 1.784 triệu USD, đạt 43% so với kế hoạch năm. Nhập khẩu với tổng kim ngạch đạt hơn 1.138 triệu USD, giảm 2,88% so với cùng kỳ năm 2022 cụ thể như sau:
1. Sản xuất công nghiệp
Theo số liệu của Cục Thống kê Bình Phước, chỉ số sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh tháng 6 ước tính tăng 5,04% so với tháng trước, tăng 12,56% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khai khoáng tăng 8,54% so với tháng trước, tăng 28,34% so với cùng kỳ năm trước; Tương tự: Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,74% so với tháng trước, tăng 12,82% so cùng kỳ năm trước; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt & nước nóng tăng 11,86% so với tháng trước, tăng 3,44% so cùng kỳ năm trước; Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,59% so với tháng trước, tăng 12,69% so cùng kỳ năm trước.
Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 2,89%, quý II tăng 13,05%). Trong các ngành khai khoáng tăng 6,95% so với cùng kỳ năm trước; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,84%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 3,57%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,16%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 6 tháng đầu năm tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Thức ăn cho gia cầm tăng 29,65%; Thịt gà đông lạnh tăng 24,84%; Hạt điều nhân tăng 13,22%; Dịch vụ in trờn sợi và vải (gồm cả đồ để mặc) tăng 8,27%; Đá xây dựng khác tăng 6,95%... Một số sản phầm có mức giảm như: Dịch vụ sản xuất giày, dép giảm 26,11%; Dịch vụ hoàn thiện sản phẩm dệt khác giảm 9,44%; Dịch vụ sản xuất tấm, phiến, ống và cốc các mặt nghiêng bằng plastic giảm 8,06%; Ván ép từ gỗ và các vật liệu tương tự giảm 1,62%...
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 6 tháng đầu năm 2023 giảm 62,18% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm mạnh: Sản xuất đồ uống giảm 71,90%; Sản xuất xe có động cơ giảm 68,69%; Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 40,92%... Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước đến 30/6/2023 tăng 73,00% so với cùng kỳ năm trước.
Lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tháng 6 ước tính tăng 4,40% so với tháng trước và giảm 7,57% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp giảm 6,54% so với cùng kỳ năm trước, trong đó lao động đang làm việc trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 4,72%; khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước giảm 43,36%; khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 4,01%.
2. Hoạt động thương mại và dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 6 năm 2023 ước tính đạt 6.510,18 tỷ đồng, tăng 1,56% so với tháng trước và tăng 16,27% so với cùng kỳ. Ước quý II năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 19.258,99 tỷ đồng, tăng 3,49% so với quý trước, tăng 16,81% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước thực hiện 37.871,94 tỷ đồng, tăng 23,54% so với cùng kỳ năm trước.
Kim ngạch xuất, nhập khẩu
Kim ngạch xuất khẩu tháng 6/2023 ước đạt 329,25 triệu USD, tăng 9,02% so với tháng trước và giảm 13,72% so với cùng kỳ năm 2022. Ước 6 tháng đầu năm đạt 1.784,4 triệu USD, giảm 8,65% so với cùng kỳ năm 2022, đạt 43% so với kế hoạch năm.
Kim ngạch nhập khẩu tháng 6/2023 ước đạt 242,18 triệu USD, tăng 4,35% so với tháng trước và tăng 10,94% so với cùng kỳ năm 2022. Ước 6 tháng đầu năm đạt 1.138,64 triệu USD, giảm 2,88% so với cùng kỳ năm 2022, đạt 51,06% so với kế hoạch năm.
Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
Giá lương thực, thực phẩm tăng, giá điện, nước sinh hoạt tăng do thời tiết nắng nóng kéo dài là những nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2023 tăng 0,39% so với tháng trước; tăng 2,59% so với tháng 12/2022 và tăng 3,94% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân quý II/2023 tăng 4,23% so với quý II/2022. Bình quân 6 tháng đầu năm 2023, CPI tăng 4,65% so với cùng kỳ năm trước.
Trong mức tăng 0,39% của CPI tháng 06/2023 so với tháng trước, có 09 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, 2 nhóm hàng giữ giá ổn định.
- Chín nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm:
+ Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,75% trong đó mặt hàng lương thực trong tháng có giá gạo tăng là chủ yếu, do thị trường xuất khẩu sôi động. Bên cạnh đó, giá thịt gia súc tăng 3,18% (trong đó thịt lợn tăng 4,79%) do nguồn cung đang giảm sút trong khi sức mua tăng trở lại; Giá thịt gia cầm tăng 0,47% do chi phí chăn nuôi tăng.
+ Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,47% tập trung chủ yếu ở các mặt hàng điện lạnh do thời tiết nắng nóng nên nhu cầu tiêu dùng tăng (Trong đó, giá điều hòa nhiệt độ tăng 1,52%; tủ lạnh tăng 0,37%; thiết bị khác tăng 0,14%).
+ Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,33% chủ yếu tăng giá điện sinh hoạt tăng 3,41% do giá nhiên liệu tiếp tục tăng cao. Giá gas giảm 8,88% giá gas trong nước điều chỉnh giảm 35.000 đồng/bình 12 kg. Giá dầu hỏa giảm 2,41% do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá vào ngày 01/6/2023, 12/6/2023 và 21/6/2023.
+ Nhóm giao thông tăng 0,15% chủ yếu do giá xăng, dầu điều chỉnh tăng, giảm vào ngày 01/6/2023, 12/6/2023 và 21/6/2023 làm cho chỉ số giá nhóm xăng, dầu tăng 0,49% so với tháng trước làm CPI chung tăng 0,02%.
+ Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,14% chủ yếu do giá dịch vụ phục vụ cá nhân tăng 3,84%.
+ Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,07%.
+ Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,05% do giá nguyên liệu đầu vào và giá vận chuyển tăng.
+ Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,02%.
+ Nhóm bưu chính viễn thông tăng 0,01%.
- Hai nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá ổn định gồm: Nhóm thuốc và dịch vụ y tế và nhóm giáo dục.
Trong 6 tháng đầu năm, chỉ số giá bình quân tăng 4,65% so với cùng kỳ năm trước. Trong 11 nhóm hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng chính có 9 nhóm hàng tăng giá so với bình quân cùng kỳ năm trước: Nhóm nhà ở và vật liệu xây tăng 22,74%; Nhóm văn hóa, giải trí, du lịch tăng 6,42%; Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 3,62%; Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,08%; Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 3,03%; Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,04%; Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,70%; Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 1,11%; Nhóm giáo dục tăng 1,58%. Có 2 nhóm hàng giảm giá so với bình quân cùng kỳ năm trước: Giao thông giảm 5,27%; Nhóm bưu chính, viễn thông giảm 0,46%.
Chỉ số giá vàng: Giá vàng trong nước biến động theo giá vàng thế giới. Giá vàng thế giới trượt dốc sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tạm dừng tăng lãi suất. Tính đến ngày 23/6/2023, giá vàng giảm 0,96% so với tháng trước; tăng 1,40% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 6 tháng đầu năm 2023, chỉ số giá vàng tăng 0,04%.
Chỉ số giá đô la Mỹ: Giá đồng USD tăng nhẹ sau khi giảm trước đó do thỏa thuận về trần nợ của Mỹ làm tăng rủi ro trên thị trường. Tại thị trường trong nước giá đồng USD tăng 0,10% so với tháng trước và tăng 1,35% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 6 tháng đầu năm 2023, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 2,94%.
3. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp
Tình hình phát triển doanh nghiệp: Tính từ đầu năm đến nay, có 500 doanh nghiệp đăng ký thành lập với số vốn đăng ký 6.000 tỷ đồng, bằng 79,11% về số doanh nghiệp, bằng 77,30% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2022 và đạt 41,70% kế hoạch năm. Lũy kế đến hết tháng 6/2023 số doanh nghiệp đăng ký trên địa bàn là 11.172 doanh nghiệp, với số vốn đăng ký 191.652 tỷ 907 triệu đồng.
Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý II/2023 cho thấy: có 28,81% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý II năm nay tốt hơn quý trước; 35,59% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn và 35,59% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định. Dự kiến quý III/2023 có 45,76% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 25,42% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn và 28,81% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định. Trong đó, khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh đánh giá lạc quan nhất khi có tới 32,43% số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất kinh doanh quý II/2023 tốt hơn; tỷ lệ này ở Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 23,81%.
Trong những tháng còn lại của năm 2023, ngoài những công việc thường xuyên, đột xuất, Sở Công Thương tập trung thực hiện những công việc chủ yếu sau: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện kế hoạch triển khai thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; Hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng thương mại điện tử vào hoạt động sản xuất - kinh doanh để nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường; Thực hiện hoàn thành các đề án khuyến công; Tiết kiệm năng lượng, xúc tiến thương mại; Sàn giao dịch nông sản tỉnh Bình Phước./.
Nguyễn Kiều Ly
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT