Chỉ số Đổi mới sáng tạo - Global Innovation Index (viết tắt GII) là chỉ số đánh giá năng lực và kết quả đổi mới của các nền kinh tế thế giới do Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới - World Intellectual Property Organization (viết tắt WIPO), Đại học Cornell (Hoa Kỳ) và Viện INSEAD hợp tác thực hiện hàng năm từ năm 2009.
Chỉ số GII được đánh giá từ 84 tiêu chí trong các lĩnh vực:
- Thể chế của nền kinh tế.
- Nguồn nhân lực và năng lực nghiên cứu.
- Kết cấu hạ tầng.
- Sự tinh tế của thị trường và doanh nghiệp.
- Sản phẩm tri thức và công nghệ.
- Sản phẩm sáng tạo.
Thông qua chỉ số GII, các quốc gia thấy được bức tranh tổng thể cũng như các điểm mạnh, điểm yếu của mình. Vì lý do này mà GII hiện được Chính phủ nhiều quốc gia sử dụng như một công cụ tham chiếu quan trọng cho quản lý nhà nước về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, cũng như để xây dựng các chính sách khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo (Ấn Độ, Trung Quốc, Philippines, Columbia, Brazil…).
Thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã sử dụng bộ chỉ số này như một trong các công cụ quản lí điều hành quan trọng và đã phân công các bộ, cơ quan, địa phương cùng có trách nhiệm cải thiện chỉ số. Trong đó, Bộ Khoa học và Công nghệ được giao nhiệm vụ là đầu mối theo dõi, điều phối chung.
Chiều tối ngày 27/9/2023 (giờ Việt Nam), tại Thụy Sĩ, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới đã tổ chức lễ công bố báo cáo chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2023. Theo báo cáo được công bố, Việt Nam được xếp hạng 46/132 quốc gia và nền kinh tế về chỉ số đổi mới sáng tạo năm 2023.
Từ năm 2017 đến nay, chỉ số GII của Việt Nam liên tục được cải thiện, tăng từ vị trí 59 (năm 2016) lên 42 (năm 2019 và 2020), 44 năm 2021, 48 năm 2022 và 46 năm 2023.
Về thứ hạng đầu vào đổi mới sáng tạo, Việt Nam tăng 2 bậc so với năm 2022, từ vị trí 59 lên 57. Đầu vào đổi mới sáng tạo gồm 5 trụ cột: thể chế, nguồn nhân lực và nghiên cứu, cơ sở hạ tầng, trình độ phát triển của thị trường, trình độ phát triển của doanh nghiệp.
Đầu ra đổi mới sáng tạo tăng 1 bậc so với năm 2022, từ vị trí 41 lên 40, gồm 2 trụ cột là sản phẩm tri thức và công nghệ, sản phẩm sáng tạo.
Bảng 1. Tiến bộ về xếp hạng chỉ số GII của Việt Nam 2017 – 2023
|
2017
(127 QG)
|
2018
(126 QG)
|
2019
(129 QG)
|
2020
(131 QG)
|
2021
(132 QG)
|
2022
(132 QG)
|
2023
(132 QG)
|
Nhóm chỉ số đầu vào đổi mới sáng tạo
|
71
|
65
|
63
|
62
|
60
|
59
|
57
|
1. Thể chế
|
87
|
78
|
81
|
83
|
83
|
51
|
48
|
2. Nguồn nhân lực và nghiên cứu
|
70
|
66
|
61
|
79
|
79
|
80
|
71
|
3. Cơ sở hạ tầng
|
77
|
78
|
82
|
73
|
79
|
71
|
70
|
4. Trình độ phát triển của thị trường
|
34
|
33
|
29
|
34
|
22
|
43
|
49
|
5. Trình độ phát triển của doanh nghiệp
|
73
|
66
|
69
|
39
|
47
|
50
|
49
|
Nhóm chỉ số đầu ra đổi mới sáng tạo
|
38
|
41
|
37
|
38
|
38
|
41
|
40
|
6. Sản phẩm trí thức và công nghệ
|
28
|
35
|
27
|
37
|
41
|
52
|
48
|
7. Sản phẩm sáng tạo
|
52
|
46
|
47
|
38
|
42
|
35
|
36
|
Xếp hạng chung
|
47
|
45
|
42
|
42
|
44
|
48
|
46
|
Nguồn: WIPO
Theo WIPO, Việt Nam là một trong 7 quốc gia thu nhập trung bình đạt được nhiều tiến bộ nhất về đổi mới sáng tạo trong thập kỷ qua (gồm Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Việt Nam, Philippines, Indonesia và Cộng hòa Hồi giáo Iran). Việt Nam cũng là một trong 3 quốc gia (cùng Ấn Độ, Cộng hòa Moldova) giữ kỷ lục có thành tích vượt trội so với mức độ phát triển trong 13 năm liên tiếp.
Năm 2023, chỉ số GII có một số thay đổi về các chỉ số thành phần, nguồn dữ liệu và cách tính chỉ số thành phần. Trong đó, có chỉ số mới về startups như “Giá trị của các doanh nghiệp kỳ lân” (Việt Nam được xếp hạng 33).
Chi R&D của Việt Nam xếp hạng 66, không có sự cải thiện so với các năm trước. Tuy nhiên, chi R&D của top 3 doanh nghiệp lớn có sự cải thiện đáng kể, xếp hạng 29, tăng 9 bậc so với năm 2022. Giá trị các thương vụ đầu tư mạo hiểm dù còn nhỏ nhưng cũng đã có sự cải thiện lớn so với năm 2022, xếp hạng 60, tăng 17 bậc so với 2022. Các doanh nghiệp liên tục đầu tư để thực hiện quản lý chất lượng theo ISO. Theo đó, chỉ số về giá trị ISO 9001/tỷ $PPP GDP đã tăng 15 bậc so với năm 2022, từ vị trí 65 lên 50 năm 2023.
Bên cạnh đó, một số chỉ số còn ở mức thấp. Nhóm chỉ số bền vững sinh thái dù tăng 3 bậc so với năm 2022 nhưng thứ hạng vẫn rất thấp, xếp hạng 110. Trong đó, đáng chú ý nhất là chỉ số Kết quả về môi trường xếp hạng 130, tiếp tục giảm 2 bậc so với năm 2022. Đây là chỉ số luôn có thứ hạng thấp từ năm 2017 đến nay.
Các vấn đề về Thể chế vẫn cần nhiều nỗ lực cải thiện để tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Chỉ số Hiệu quả thực thi pháp luật xếp hạng 72, giảm 2 bậc so với năm 2022. Chỉ số Chất lượng các quy định pháp luật sau khi cải thiện 10 bậc từ hạng 93 lên 83 vào năm 2022, năm 2023 giảm xuống vị trí 94.
Trong khu vực ASEAN, Việt Nam xếp sau Singapore (xếp hạng 5), Malaysia (36) và Thái Lan (43).
Bảng 2. Thứ hạng của các quốc gia khu vực ASEAN 2017 - 2023
TT
|
Quốc gia
|
2017
|
2018
|
2019
|
2020
|
2021
|
2022
|
2023
|
1
|
Singapore
|
7
|
5
|
8
|
8
|
8
|
7
|
5
|
2
|
Malaysia
|
37
|
35
|
35
|
33
|
36
|
36
|
36
|
3
|
Thái Lan
|
51
|
44
|
43
|
44
|
43
|
43
|
43
|
4
|
Việt Nam
|
47
|
45
|
42
|
42
|
44
|
48
|
46
|
5
|
Philippines
|
73
|
73
|
54
|
50
|
51
|
59
|
56
|
6
|
Indonesia
|
87
|
85
|
85
|
85
|
87
|
75
|
61
|
7
|
Brunei
|
71
|
67
|
71
|
71
|
82
|
92
|
87
|
8
|
Campuchia
|
110
|
98
|
98
|
110
|
109
|
97
|
101
|
9
|
Lào
|
Chưa được đánh giá, xếp hạng
|
113
|
117
|
112
|
110
|
10
|
Myanmar
|
Chưa được đánh giá, xếp hạng
|
129
|
127
|
116
|
-
|
Nguồn: WIPO
Trương Thị Quỳnh Vân
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT