NGHIÊN CỨU

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Nghiên cứu

Quy hoạch Hải Phòng đến năm 2040, tầm nhìn đến năm 2050

22/04/2023

Hải Phòng là một thành phố ven biển nằm ở hạ lưu của hệ thống sông Thái Bình, thuộc vùng Đông Bắc Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH), có toạ độ địa lý từ 20°30′39′′ đến 21°01′15′′ độ Bắc từ 106°23′39′′ đến 107°08′39′′ kinh độ Đông. Về ranh giới hành chính: Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh; Phía Nam giáp tỉnh Thái Bình; Phía Tây giáp tỉnh Hải Dương; Phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ với đường bờ biển dài 129 km, nơi có 05 cửa sông lớn là: Bạch Đằng, Cửa Cấm, Lạch Tray, Văn Úc, và sông Thái Bình.

Đặc điểm vị trí địa lý nổi bật nhất của Hải Phòng là ở chỗ được chọn làm nơi   xây dựng cảng biển và thực tế đã thành một thành phố cảng đắc địa, lớn nhất miền Bắc. Dưới triều vua Tự Đức (1847-1883), Ninh Hải đã được chọn làm nơi xây dựng   bến cảng. Khi Pháp đô hộ, Hải Phòng được chọn làm nơi xây dựng thành phố biển cảng biển, đường sắt, sân bay, nhà máy điện, nhà máy xi măng, xưởng đóng tàu... Đến năm 1896, trên địa bàn Hải Phòng đã 8 hãng xuất - nhập khẩu, 12 đại hàng tiêu dùng 2 hãng tàu biển, 1 hãng tàu chạy ven biển Hải Phòng - Vinh, 2 công ty  vận tải đường sông. (Lịch sử Hải Phòng, Tập 3). Thời đó người Pháp đã có ý kiến cho rằng nên xây dựng Hải Phòng là “Thủ đô kinh tế” của Đông Dương (Đan Đức Hiệp: Kinh tế Hải Phòng 1955-2055 - Chặng đường, định hướng và tầm nhìn. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, 2021).

Ngày nay, Hải Phòng là một trong những đầu mối giao thông, gồm cả đường bộ, đường sắt, hàng không và đặc biệt là đường biển, cửa mở thông thương với thế giới lớn nhất miền Bắc. Hải Phòng vì thế, đương nhiên (cùng với một phần của Quảng Ninh) trở thành “cửa ngõ” cho cả vùng Đồng bằng sông Hồng, vùng Trung du và miền núi phía Bắc, xa hơn nữa là cả vùng phía Nam Trung Quốc (Lịch sử Hải Phòng, Tập 3). Với khoảng cách chừng 100 km tới Hà Nội, Hải Phòng không phải là địa phương cận kề để trực tiếp chịu tác động lan tỏa từ Nội, nhưng cũng không phải  quá xa để tạo lập một trung tâm kinh tế độc lập. Xét theo khoảng cách địa chức  năng kinh tế, Hải Phòng Nội đã thành hai thành phố lớn nhất miền Bắc, hỗ trợ,  bổ sung cho nhau cùng phát triển, trong đó Hải Phòng đảm nhận chức năng thành phố cảng biển cửa ngõ quốc tế, một đỉnh của tam giác phát triển và là một động lực  phát triển kinh tế của miền Bắc và cả nước. Bên cạnh các yếu tố độc đáo về địa kinh tế, Hải Phòng còn một vị trí trọng  yếu về quốc phòng, an ninh để bảo vệ quốc gia, bảo vệ chủ quyền biển đảo, là địa bàn đứng chân của Quân khu 3, đảo tiền tiêu Bạch Long gần giữa Vịnh Bắc  Bộ và hệ thống các đảo ven bờ.

Thành phố Hải Phòng một mắt  xích quan trọng của cả hai hành lang kinh tế chiến lược: Nam Ninh-Lạng Sơn- Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh và Côn Minh-Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh. Nhiều chương trình dự án quan trọng được triển khai đi vào hoạt động như  tuyến cao tốc Bắc Giang - Lạng Sơn (kết nối với cao tốc Lạng Sơn - Nội), Nội - Hải Phòng, Nội Bài - Hạ Long - Móng Cái, khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng (Lạng Sơn), khu kinh tế cửa khấu Móng Cái (Quảng Ninh), cảng Lạch Huyện, đường bay quốc tế Hải Phòng - Vân Nam… thúc đẩy sự kết nối trực tiếp giữa Hải Phòng hỗ  trợ quá trình mở rộng liên kết giữa Hải Phòng với các địa phương của hai nước, thúc   đẩy giao thương qua các cửa khẩu, khu kinh tế cửa khẩu, phát triển dịch vụ logistics.  Hai nước cũng đang phối hợp để cụ thể hóa các nội dung hợp tác về chính sách, hạ tầng, tài chính, thương mại, con người sau khi kết Bản ghi nhớ hợp tác năm 2017  về kết nối giữa khuôn khổ “Hai hành lang, một vành đai” với sáng kiến “Vành đai Con đường”, có thể mang lại những cơ hội lớn hơn cho Hải Phòng.

Hải Phòng nằm trong Vùng ĐBSH và vùng KTTĐBB, nơi có tốc độ phát triển cao, đặc biệt trong giai đoạn 2016 - 2020, đạt gần 8,3%, cao gấp 1,25 lần bình quân của cả nước, cao hơn cả vùng Đông Nam Bộ. Vùng ĐBSH tập trung khoảng 25,3 nghìn doanh nghiệp với sự hiện diện của các tập đoàn đa quốc gia lớn như Sam Sung, Canon, Panasonic... GRDP/người của vùng đạt khoảng 4,4 nghìn USD, cao gấp 1,25 lần cả nước. Giai đoạn 2017-2020, 7/7 địa phương vùng KTTĐBB đều có tỷ lệ điều tiết về NSTW; là Vùng KTTĐ đầu tiên của cả nước có tất cả các tỉnh, thành phố điều tiết về ngân sách trung ương. Các địa phương Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh luôn nằm trong nhóm 5 tỉnh, thành phố có số thu lớn nhất nước. Đây cũng địa bàn tập trung các trung tâm giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, hội hàng đầu cả nước. Trên địa bàn Vùng, trong thời gian qua đã đang triển khai nhiều công trình, dự án lớn, quan trọng tác động lan tỏa, thúc đẩy sự phát triển của Vùng nói chung   và Hải Phòng nói riêng. Điển hình nhất liên quan tới Hải Phòng là đã đưa vào khai thác một số tuyến đường bộ cao tốc như Hà Nội - Hải Phòng (105,5km); Hạ Long -   Hải Phòng (25km, bao gồm cầu Bạch Đằng nút giao cuối tuyến). Hoàn thành đầu  tư các tuyến quốc lộ (18, 10, 5….) để hình thành các trục chính kết nối trung tâm vùng với các tỉnh trong Vùng và các vùng khác trong cả nước. Đã khởi công tuyến cao tốc ven biển kết nối Nam Định, Ninh Bình Thái Bình với Hải Phòng. Đầu  tư mở rộng cảng Đình Vũ, cảng Cái Lân, cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng tại Lạch Huyện…. Đưa Cảng hàng không quốc tế Cát Bi (Hải Phòng) làm cảng hàng không quốc tế. Ngoài ra, trong Vùng đã có 02 khu kinh tế ven biển được thành lập (trong đó có khu Đình - Cát Hải).

Lĩnh vực thương mại

Thương mại bán buôn, bán lẻ trong nước là lĩnh vực hoạt động kinh tế lớn trong khu vực dịch vụ các thành phố nói chung, Hải Phòng nói riêng. Cùng với các  hình thức thương mại truyền thống (hệ thống các chợ truyền thống, các cửa hàng cửa hiệu...), gần đây đã có nhiều các hình thức mới như siêu thị hiện đại, các hình thức kinh doanh thương mại trên nền tảng số... góp phần làm cho hoạt động kinh doanh thương mại trở nên đa dạng và tiện dụng hơn.

Đặc điểm của ngành thương mại số lao động chiếm vị trí cao nhất trong khu   vực dịch vụ tỷ trọng doanh nghiệp tuy xu hướng giảm, nhưng năm      2020 vẫn chiếm vị trí cao nhất (hơn 50%) trong khối các ngành dịch vụ cũng như cả nền kinh tế (hơn 36%). Số doanh nghiệp tăng lên, nhưng quy doanh nghiệp theo lao động lại giảm     mạnh, phản ánh xu thế phân tán tác động của công nghệ 4.0 đang tác động mạnh   vào hoạt động kinh doanh của lĩnh vực thương mại nói riêng, nền kinh tế nói chung.  Số lao động bình quân/doanh nghiệp thương mại của thành phố Hải Phòng có xu hướng giảm: Nếu như năm 2010 mỗi DN thương mại 12 lao động (nền kinh tế: 52 lao động; DN dịch vụ: 21 lao động) thì đến năm 2019 chỉ còn 7-8 lao động/DN (nền  kinh tế: 30 lao động; DN dịch vụ: 14 lao động). Số liệu thống cho thấy, năm 2019,  Hải Phòng có 49% số DN thương mại có dưới 5 lao động và 34,3% số DN thương mại có số lao động từ 5-9 người/DN.

Ngoài ra, thương mại cũng lĩnh vực số sở kinh tế thể tham gia hoạt  động rất cao và tăng nhanh: từ 41.300 cơ sở năm 2010 lên 50.100 cơ sở năm 2019, chiếm trên 50% tổng số sở kinh tế thể tăng thêm của toàn thành phố Hải Phòng (giai đoạn 2011-2019 toàn thành phố tăng thêm 15.700 sở kinh tế thể thì riêng ngành thương mại đã tăng 8.700 cơ sở).

Số cơ sở kinh tế cá thể thương mại chiếm tỷ trọng 47,7% tổng số cơ sở kinh tế cá thể của Hải Phòng năm 2010 tăng lên 52% năm 2018, riêng năm 2019 chỉ còn 48,9% có thể được giải thích bởi nguyên nhân dịch Covid-19 đã làm giảm cả về số lượng và tỷ trọng các cơ sở kinh tế cá thể hoạt động thương mại. Tổng số lao động trong các sở kinh tế thể hoạt động trong lĩnh vực thương mại tăng qua các năm, năm 2015: 62.474 lao động, 2019: 67.910 lao động. Không có sự biến đổi đáng ghi nhận về số lao động bình quân 1 sở kinh tế thể hoạt động thương mại (vẫn chỉ 1,3 lao động/cơ sở trong suốt giai đoạn 2011-2019), thấp hơn số lao động bình quân 1 cơ sở kinh tế cá thể của thành phố (1,5 lao động/cơ sở).

Hạ tầng thương mại của thành phố Hải phòng chủ yếu gồm các hình thức: Chợ       truyền thống, Siêu thị & Trung tâm thương mại hiện đại và các cửa hàng bán xăng dầu. Ngoài ra, còn rất nhiều các hình thức chợ tạm, chợ cóc... nhất hệ thống   các cửa hàng tự doanh của các hộ gia đình.

Chợ truyền thống: 10 năm qua, số lượng chợ chợ của Hải Phòng tăng 4 chợ. Tuy tăng ít nhưng số lượng chợ được nâng cấp có xu hướng tăng lên nhanh hơn. Hiện nay, Hải Phòng có 156 chợ các loại (trong đó có 6 chợ hạng 1, 13 chợ hạng 2, 137 chợ hàng 3, chiếm khoảng 1,8% tổng số chợ của cả nước và chiếm 8% số chợ của vùng ĐBSH). Tham gia vào hoạt động kinh doanh tại các chợ hơn 19.600 hộ kinh doanh. Mạng lưới chợ cũng đã được phát triển rộng khắp thành phố. Hải Phòng chỉ đứng sau Nội TP. Hồ Chí Minh về số lượng chợ. Hệ thống này bản đáp ứng nhu cầu mua sắm của người dân toàn thành phố cũng như khách du lịch đến với Hải Phòng.

Siêu thị: số lượng siêu thị của thành phố Hải Phòng tăng mạnh trong giai đoạn 2011-2015, từ 11 siêu thị năm 2010 tăng lên gấp đôi vào năm 2015, đến năm 2020 thành phố có 25 siêu thị, chiếm khoảng 8% số lượng siêu thị của vùng ĐB sông Hồng (317 siêu thị), 2,2% của cả nước (1.163 siêu thị). Số lượng siêu thị Hải Phòng tương đương với Quảng Ninh, Bắc Ninh (27 siêu thị) ít hơn 4,8 lần so với Nội.

Trung tâm thương mại: Hiện nay thành phố Hải Phòng 11 trung tâm thương mại, nhiều thứ hai vùng ĐBSH sau Hà Nội (29 trung tâm); bằng chiếm 18% của vùng ĐB sông Hồng (61 trung tâm) và 4,4% của cả nước (250 trung tâm). Có 4/11 trung tâm thương mại, siêu thị thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.

Cửa hàng xăng dầu: trên địa bàn thành phố hiện có hơn 200 cửa hàng xăng dầu được cấp Giấy chứng nhận cửa hàng đủ điều kiện bán lẻ xăng dầu. Các cửa hàng xăng dầu phân bố đều các quận, huyện, hiện đã cung cấp đủ cho nhu cầu tiêu dùng của thành phố. Năm 2020, tổng mức bán lẻ xăng dầu các loại nhiên liệu đạt 23.085 tỷ đồng, tăng thêm 16.520 tỷ đồng so với năm 2015.

Thành phố cảng Hải Phòng một trong những địa phương hoạt động xuất, nhập khẩu lớn. Tỷ trọng giá trị xuất - nhập khẩu hàng hóa của Hải Phòng so với cả nước (năm 2020) đã tăng lên gấp hơn 2,4 lần so với 5 10 năm trước. Hiện nay, Hải Phòng địa phương  quy mô giá trị xuất - nhập khẩu đứng thứ 5 cả nước. Về xuất khẩu, năm 2020, kim ngạch xuất khẩu qua Hải Phòng đạt gần 18,9 tỷ USD (chiếm 6,6%/cả nước), vượt chỉ tiêu Quy hoạch 2018 đề ra (khoảng 12 - 17 tỷ USD vào năm 2020); trong đó giá trị xuất khẩu của riêng Hải Phòng chiếm khoảng    25%.

Mặt hàng xuất khẩu ngày càng phong phú đa dạng. Trong đó, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của thành phố như dệt may, giày dép, hàng điện tử, dây và cáp điện, máy móc thiết bị, plastic có đóng góp trên 84% tổng kim ngạch xuất khẩu của thành phố, mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao như điện tử và linh kiện điện tử, máy móc và linh kiện thiết bị sản xuất ô tô tăng trưởng mạnh trong mấy năm gần đây. Thị trường xuất khẩu hàng hóa tiếp tục được mở rộng, từ 107 thị trường năm 2015 tăng lên 126 thị trường vào năm 2020. Trong đó, Nhật Bản là thị trường xuất khẩu lớn nhất, tiếp theo là Mỹ, Hàn Quốc, EU, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông ASEAN. Tuy nhiên, phần lớn giá trị xuất khẩu do khu vực vốn đầu nước ngoài (65,8% năm 2015 tăng lên 83,2% năm 2020). Phần khu vực kinh tế trong nước chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ và giảm từ 34,2% năm 2015 xuống còn 16,8% năm 2020.

Về nhập khẩu, năm 2020, Hải Phòng đạt 15,4 tỷ USD (chiếm 5,9%/cả nước),  gấp 4,7 lần năm 2015, bình quân giai đoạn 2016-2020 tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu khoảng 36,2%. Trong cấu hàng nhập khẩu, máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng chiếm tỷ trọng cao nhất (53%); hàng nguyên, nhiên, vật liệu chiếm thứ hai (40%); các mặt hàng nông, lâm, thủy sản không đáng kể. Về cơ cấu mặt hàng, 74% tổng kim ngạch nhập khẩu là máy móc thiết bị, nguyên phụ liệu giày dép, vải may mặc, sắt thép - phôi thép. Cũng như xuất khẩu, khối doanh nghiệp FDI đóng vai trò chủ đạo trọng hoạt động nhập khẩu và chiếm 2/3 trong tổng kim ngạch nhập khẩu của thành phố.

Trên địa bàn Hải Phòng hiện có hơn 20.000 doanh nghiệp làm thủ tục xuất - nhập khẩu, trong đó thành phố hơn 1.800 doanh nghiệp, đóng góp cho thành phố  gần 5.200 tỷ đồng tiền thuế (chiếm 11,3% tổng số thuế của toàn Cục Hải quan thành  phố Hải Phòng).

Theo Quyết định số 323/QĐ-TTg điều chỉnh Quy hoạch chung thành phố Hải Phòng đến năm 2040, tầm nhìn đến năm 2050 vừa được Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà phê duyệt, giai đoạn từ 2045 - 2050 Hải Phòng sẽ vào nhóm các thành phố hàng đầu châu Á và thế giới.

 

Các mục tiêu, chỉ tiêu về kinh tế đến năm 2030

Tỷ trọng đóng góp GRDP của thành phố Hải Phòng vào tổng sản phẩm (GDP) của cả nước đến năm 2030 đạt khoảng 6,4%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) bình quân thời kỳ 2021-2030 tăng khoảng 12,8%/năm, trong đó: Công nghiệp - xây dựng tăng khoảng 15,0/năm (công nghiệp tăng 15,6%/năm, xây dựng tăng 11,3%/năm); dịch vụ tăng khoảng 10,9%/năm; nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng khoảng 0,9%/năm;

Cơ cấu kinh tế: Ngành công nghiệp - xây dựng chiếm khoảng 50,9% (công nghiệp chiếm 45,6%); ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm khoảng 1,2%; ngành dịch vụ chiếm 42,8% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm khoảng 5,1%;

GRDP bình quân đầu người (giá hiện hành) đạt khoảng 520 triệu đồng/ năm, tương đương khoảng 20.200 USD;

Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế từ 56 - 59%;

Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân 8,9 - 10,7%/năm;

Kinh tế số đạt khoảng 40% GRDP thành phố;

Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn vào năm 2025 đạt 180-190 nghìn tỷ đồng và năm 2030 đạt 300-310 nghìn tỷ đồng, trong đó thu nội địa đạt tương ứng 55-60 nghìn tỷ đồng và 90-98 nghìn tỷ đồng;

Huy động vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thời kỳ 2021-2030 đạt khoảng 3,5 triệu tỷ đồng (giá hiện hành). Trong đó giai đoạn 2021-2025: 1,2 triệu tỷ đồng, bằng khoảng 2,3 lần giai đoạn 2016-2020; giai đoạn 2026-2030 là 2,3 triệu tỷ đồng, bằng 1,9 lần giai đoạn 2021-2025.

Sẽ là thành phố với tỷ lệ đô thị hóa từ 80 đến 86%

Dự báo, dân số Hải Phòng đến năm 2040 sẽ tăng lên khoảng từ 3,9 đến 4,7 triệu người, Trong đó dân số đô thị khoảng từ 3,2 đến 4,0 triệu người, tỷ lệ đô thị hóa từ 80 đến 86%. Diện tích đất xây dựng đô thị sẽ tăng lên khoảng 72.000 - 73.000 ha, trong đó đất dân dụng khoảng 25.500 - 26.500 ha, đất ngoài dân dụng khoảng 47.500 - 48.500 ha.

Về mô hình không gian đô thị, Hải Phòng sẽ phát triển từ mô hình “Đô thị trung tâm và các đô thị vệ tinh" thành mô hình “Đô thị đa trung tâm và các đô thị vệ tinh" với cấu trúc không gian đô thị gốm hai vành đai - Ba hành lang - Ba trung tâm và các đô thị vệ tinh. Trong đó, hai vành đai kinh tế gồm: Vành đai kinh tế ven biển phát triển dịch vụ - du lịch - đô thị hướng ra biển; Vành đai kinh tế công nghiệp dịch vụ từ cảng Lạch Huyện đến phía Bắc (huyện Thuỷ Nguyên), phía Tây (dọc quốc lộ 10), phía Nam (dọc sông Văn Úc) kết nối với mạng lưới khu, cụm công nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng và hệ thống cảng Hải Phòng.Ba hành lang cảnh quan gồm: Hành lang sông Cấm, sông Lạch Tray và Văn Úc.Ba trung tâm đô thị và các đô thị vệ tinh gồm Trung tâm đô thị lịch sử và đô thị hành chính mới Bắc sông Cấm; Trung tâm thương mại, tài chính quốc tế (CBD) ở Hải An và Dương Kinh và Đô thị sân bay Tiên Lãng. Các đô thị vệ tinh gồm các đô thị trong vùng sinh thái biển, nông nghiệp, nông thôn.

Với định hướng phát triển hạ tầng đô thị thông minh, Hải Phòng sẽ xây dựng trung tâm điều hành đô thị thông minh tại các đô thị mới; trung tâm ứng dụng chương trình kỹ thuật số, trung tâm dữ liệu Bigdata khu vực Đông Nam Á ở Dương Kinh.

Đảm bảo đáp ứng 100% nhu cầu về dịch vụ thông tin, viễn thông của người dân và các hoạt động trên địa bàn thành phố. Nghiên cứu ứng dụng công nghệ số vào công tác quy hoạch đô thị, quản lý và vận hành hệ thống hạ tầng đô thị, các dịch vụ công, các hoạt động xây dựng phát triển đô thị theo quy hoạch và trong các lĩnh vực kinh tế khác.

Định hướng phân vùng không gian thành phố

 

Trung tâm thương mại, tài chính quốc tế

Theo quy hoạch, Hải Phòng sẽ nâng cấp trung tâm tài chính - thương mại và hội chợ triển lãm tại Lê Chân, Hồng Bàng. Xây dựng mới khu trung tâm thương mại tài chính tầm cỡ quốc gia, quốc tế (CBD) tại Hải An, Dương Kinh; các khu trung tâm dịch vụ thương mại mới gắn với dịch vụ cảng hàng không (Cát Bi, Tiên Lãng), đô thị mới Bắc sông Cấm (Thủy Nguyên) và đô thị mới phía Tây (An Dương). 

Phát triển khu thương mại tự do trong khu kinh tế Đình Vũ - Cát Hải. Hình thành các tuyến phố thương mại, dịch vụ, cửa hàng miễn thuế. Xây dựng chợ đầu mối nông sản, thuỷ sản ở Đồ Sơn, Thuỷ Nguyên, Vĩnh Bảo, An Lão.

Thực hiện công nghiệp hóa cảng biển, logistics, nông nghiệp

Giai đoạn 2045 - 2050 Hải Phòng sẽ trở thành thành phố đi đầu cả nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; động lực phát triển của vùng Bắc Bộ và của cả nước; có công nghiệp phát triển hiện đại, thông minh, bền vững.  Có kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại kết nối thuận lợi với trong nước và quốc tế bằng cả đường bộ, đường sắt, hàng hải, đường hàng không và đường thủy nội địa; trọng điểm dịch vụ logistics và du lịch; trung tâm quốc tế về giáo dục, đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ, kinh tế biển.

Mạng lưới logistics khoảng 2.200 - 2.500 ha, gồm: trung tâm logistics quốc tế và cấp vùng ở khu vực Đình Vũ - Cát Hải; các trung tâm logistics cấp thành phố, trung tâm logistics chuyên dụng, trung tâm logistics hỗ trợ gắn với các đầu mối giao thương chính.

Hải Phòng tiếp tục ưu tiên phát triển các chức năng cảng, dịch vụ cảng, khai thác cải tạo luồng lạch, hệ thống đường dây đường ống kỹ thuật, không gian du lịch, vui chơi giải trí và bảo tồn hệ sinh thái rừng ngập mặn.

Hải Phòng sẽ hình thành khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao cấp quốc gia, khu cấp thành phố và các vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ tại Kiến Thụy, An Lão, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo, An Dương,...

Thương mại, dịch vụ sẽ có những đột phá

Hệ thống chợ đầu mối nông sản, thủy sản ở Hồng Bàng,Thủy Nguyên Nguyên, Đồ Sơn, An Lão, Vĩnh Bảo sẽ được cải tạo, xây dựng, nâng cấp.

Trung tâm dịch vụ nghề cá ở Thủy Nguyên, trung tâm hậu cần nghề cá và tìm kiếm cứu nạn khu vực phía Bắc ở Bạch Long Vỹ, khu neo đậu tàu tránh bão vùng giáp bờ ở Cát Hải, vùng xa bờ ở Bạch Long Vỹ sẽ được xây mới để thúc đẩy phát triển ngành thủy sản.

Đến năm 2030 Hải Phòng sẽ có  mạng lưới du lịch chất lượng cao, đủ khả năng đáp ứng cho 30 - 35 triệu lượt khách.Năm 2040 con số đó sẽ nâng lên khoảng 35 - 40 triệu lượt khách. Trong đó, khu du lịch - dịch vụ Đồ Sơn sẽ phát triển thành trung tâm du lịch quốc tế với thể thao vui chơi giải trí, tín ngưỡng và các lễ hội biển.Khu vực Cát Bà, Long Châu, Bạch Long Vỹ thành du lịch dịch vụ kết hợp bảo vệ, giữ gìn hệ sinh thái. Hoàn thiện hồ sơ trình UNESCO công nhận Vịnh Hạ Long - Cát Bà là di sản thiên nhiên thế giới.

Hình thành tuyến du lịch di sản văn hóa: Cái Bèo - Tràng Kênh - Bạch Đằng Giang - Núi Voi - Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm - Khu tưởng niệm Nhà Mạc, khu phố cũ có giá trị về lịch sử, kiến trúc; bảo tồn, phát huy giá trị các khu vực liên quan tới cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trên dòng sông Bạch Đằng...

Các giải pháp chủ yếu thu hút, quản lý và sử dụng vốn đầu tư

a. Vốn từ ngân sách

- Ngân sách Trung ương

Ngân sách Trung ương tuy chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng vốn đầu tư, nhưng ý nghĩa hết sức quan trọng bởi tính chất trọng yếu của các dự án trên địa bàn thành phố và địa bàn toàn vùng, thậm chí cả nước và quốc tế. Đó là các dự án giao thông đối ngoại: sân bay, đường sắt, đường cao tốc, bến cảng, luồng cảng biển, công trình truyền tải điện, cấp nước. Những dự án này nếu được khai thông, triển khai đúng thời hạn và chất lượng, sẽ giải tỏa các ách tắc kết cấu hạ tầng của mỗi vùng, mỗi địa phương. vậy, trên sở đã được dự tính, thành phố cần phối hợp chặt chẽ với các bộ ngành các địa phương liên quan thúc đẩy việc thực hiện tốt các dự án này.

- Ngân sách địa phương

Cũng như Ngân sách Trung ương, Ngân sách thành phố tuy không lớn về tỷ trọng trong tổng đầu hội trên địa bàn, nhưng quy tuyệt đối không nhỏ   ý nghĩa rất quyết định đối với việc định hình diện mạo phát triển chung, cơ cấu kinh tế và hình thái không gian phát triển của thành phố. Trên cơ sở được phân cấp, phân quyền, cần thực hiện tốt các chính sách tạo nguồn vốn đầu tư cho ngân sách thành phố, đặc biệt là các quy định đã được ghi trong Nghị quyết số 35/2021/QH15 ngày 13 tháng 11 năm 2021 của Quốc hội Về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Hải Phòng. Trong đó, cần tổ chức triển khai thật tốt Điểm 1 Điều 3 của Nghị quyết quy định về việc vay thông qua phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, vay từ các tổ chức tài chính trong nước, các tổ chức khác trong nước từ nguồn vay nước ngoài của Chính phủ vay  về cho Thành phố vay lại. Đồng thời, cần khai thác thật tốt kênh tạo nguồn vốn đầu tư từ tài nguyên, nhất là tài nguyên đất cho ngân sách thành phố. Hải Phòng tuy là địa phương không nhiều tài nguyên khoáng sản, nhưng với tư cách là thành phố cảng lớn, lại cấp trực thuộc trung ương nên tài nguyên đất (tính theo vốn tài chính) cùng l ớn khả năng khai thác còn nhiều. Một mặt, cần các phương án chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ các loại hiệu quả thấp sang loại hình sử dụng hiệu quả cao hơn, đặc biệt từ đất nông nghiệp sang đất công nghiệp và dịch vụ. Mặt khác, cần   soát lại tất cả các diện tích đất đang được sử dụng trong khu vực nội thành.

Hiện có một số khu vực tài sản đất có thể huy động vào đầu tư công như khu vực cảng cũ được dự kiến chuyển sang làm khu thương mại ven sông, vùng đất xung quanh khu hành chính mới phía Bắc sông Cấm, bãi chứa rác trên địa bàn  quận Hải An. Trên sở đó, cần kế hoạch đưa các tài sản đất đai này (quy đổi ra tiền) vào đầu tư, bởi đó nguồn vốn đầu công rất lớn quý giá của Hải Phòng.

b. Vốn từ khu vực đầu nước ngoài

Tập trung tạo dựng, khai thác tối đa các mối quan hệ kinh tế sẵn với các đối tác chiến lược, chiến lược toàn diện như Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Singa- pore, Mỹ, Anh, Đức, Trung Quốc. Nghiên cứu khả năng hợp tác, mở rộng quan hệ với những đối tác tiềm năng khác, các tập đoàn đa quốc gia, hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài, các tổ chức quốc tế, các địa phương nước ngoài...

Cần thực hiện hiệu quả các chương trình xúc tiến đầu thương mại; cung cấp thông tin đến các nhà đầu nước ngoài về quy hoạch các định hướng phát triển của thành phố, nhất là thông qua kênh các nhà đầu tư hiện đã đầu tư ở Hải Phòng. Trong quá trình xúc tiến đầu tư, cần phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành một số tỉnh/thành phố trên quy toàn vùng. Các lĩnh vực cần tập trung   ưu tiên “các dự án công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan toả, kết nối chuỗi sản xuất cung ứng toàn cầu” theo nguyên tắc “chủ động thu hút, hợp tác đầu nước ngoài chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ bảo vệ môi trường tiêu chí đánh giá chủ yếu” (Nghị quyết số 50-NQ/TW 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030).

Đẩy mạnh hoạt động ngoại giao kinh tế, tăng cường mối liên hệ, kết nối với các doanh nghiệp để hỗ trợ các doanh nghiệp giải quyết khó khăn vướng mắc có liên quan đến đầu tư, sản xuất, kinh doanh.

c. Vốn từ khu vực trong nước

Khuyến khích các nhà đầu nhân trong nước đầu phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hải Phòng. Chú trọng xây dựng đội ngũ các nhà đầu tư chiến lược người Việt Nam đối với các lĩnh vực kinh tế trụ cột của thành phố, nhất là công nghiệp hiện đại, kinh tế số và một số ngành kinh tế biển.

Để thu hút các nhà đầu trong nước, cũng cần đẩy mạnh nâng cao hiệu quả xúc tiến đầu như đã nêu trên. hình xúc tiến đầu của nhiều nước trên thế giới là tiến hành xúc tiến đầu tư không phân biệt đầu tư trong nước và FDI, do một cơ quan phụ trách chung. Tính thống nhất trong quản lý đầu tư giúp cho việc điều hành hiệu quả hơn rất nhiều khi quyết định việc ưu tiên nguồn vốn nào, vào lĩnh vực ngành nghề địa điểm cụ thể nào trên mỗi vùng đơn vị hành     chính.

Tiếp tục triển khai các giải pháp tăng cường nội lực, làm nền tảng cho thu hút ngoại lực. Thành phố cần thúc đẩy mạnh mẽ cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh, tiếp tục dành nguồn lực đầu cải thiện hạ tầng giao thông kết nối liên vùng, liên khu vực thông suốt, rút ngắn thời gian vận chuyển hàng hóa, ban hành các cơ chế thông thoáng cho các nhà đầu tư, người lao động đến làm việc và sinh sống tại thành phố, thúc đẩy các hoạt động thương mại điện tử, thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế...

Để thu hút vốn đầu tư (cả trong và ngoài nước nói chung), thành phố cần tiếp tục duy trì thứ hạng cao trong môi trường kinh doanh (PCI) các chỉ tiêu về cải cách thể chế khác; thực hiện tốt việc xây dựng chính quyền điện tử, nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình.

d. Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư theo hình thức hợp tác công

Đẩy mạnh thu hút vốn theo hình thức hợp tác công (PPP), nhất đối với các dự án phát triển kết cấu hạ tầng.Thực hiện tái cơ cấu đầu tư, xây dựng hồ sơ các dự án tiềm năng thu hút theo hình thức PPP làm sở để thu hút các nguồn lực đầu ngoài ngân sách theo phương châm “lấy đầu công dẫn dắt đầu tư”.

e. Vốn từ đất

soát, hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật về tài nguyên đất để xuất xây dựng các văn bản hướng dẫn dưới luật theo hướng ưu tiên tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn trong khia thác và sử dụng đất; hoàn thiện cơ sở dữ liệu, hệ thống quản lý tài nguyên đất đai nhằm phục vụ hiệu quả công tác quản lý đất đai.

Xây dựng, tổ chức trình phê duyệt thực hiện hiệu quả quy hoạch sử dụng đất đến năm 2030, kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2021 - 2025 và 2026 - 2030 phù hợp với định hướng sử dụng đất, mục tiêu phát triển kinh tế, phát triển đô thị đến năm 2030 và tầm nhìn 2050 theo quy hoạch thành phố.

Vũ Huy Hùng

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT

BÀI VIẾT KHÁC