II. Những vấn đề đặt ra
Bên cạnh những “gam sáng”, có thể thấy “bức tranh” xuất nhập khẩu (XNK) vẫn còn khá nhiều bất cập và những vấn đề cần phải xử lý trong thời gian tới, thể hiện trên các mặt sau:
1. Tăng trưởng XK nhanh nhưng chưa vững chắc, rất dễ bị thương tổn bởi các cú sốc từ bên ngoài. Tính gia công của sản xuất, tính đại lý của thương mại ở nước ta còn rất lớn. Những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn đều là những mặt hàng hoặc là hạn chế về các yếu tố cơ cấu như năng suất, diện tích, khả năng khai thác (nhóm nông, thuỷ sản và khoáng sản) hoặc là phụ thuộc quá nhiều vào công nghệ và nguyên liệu cũng như thị trường ngoài nước nên giá trị gia tăng thấp (giày da và dệt may).
Số lượng các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại mới đối với hàng hóa XK của Việt Nam cũng gia tăng. Kể từ vụ kiện chống bán phá giá (CBPG) đầu tiên đối với gạo nhập khẩu từ Việt Nam vào Columbia năm 1994, đến nay, trung bình mỗi năm có 2 - 3 vụ kiện CBPG được tiến hành đối với hàng XK từ Việt Nam. Năm 2020, với 37 vụ việc - mức cao nhất từ trước đến nay, tăng 2,3 lần so với năm 2019.
Khu vực FDI xuất siêu (năm 2007, 2016, 2020 con số tương ứng là 6,1 tỷ USD - 23,8 tỷ USD - 34,5 tỷ USD), khu vực trong nước nhập siêu (các năm 2007, 2016, 2020 con số tương ứng là 20,3 tỷ USD - 22,2 tỷ USD - 15,4 tỷ USD). Điều này thể hiện sự phụ thuộc khá lớn của KNXK vào khu vực FDI - khu vực này không chỉ tăng trưởng XK cao hơn mà còn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng KNXK. Điều này cho thấy các DN FDI đang thích ứng tốt hơn với tình hình hiện tại và tận dụng các ưu thế do các FTA đem lại tốt hơn các doanh nghiệp Việt Nam.
2. Quá trình chuyển dịch cơ cấu thị trường nhìn chung diễn ra tương đối tốt trong những năm gần đây, hàng hóa của Việt Nam đã có mặt ở 230 nước và vùng lãnh thổ, tuy nhiên sự chuyển dịch này chưa được định hướng trên một tầm nhìn dài hạn (chủ yếu mới chỉ là sự thích ứng với thay đổi của tình hình) vì vậy đã nhanh chóng bộc lộ những điểm yếu.Việc tập trung quá lớn vào một số thị trường đã làm suy giảm khả năng thực hiện mục tiêu mở rộng thị trường mới, dẫn tới nguy cơ đánh mất thị trường, khó có thể phát triển bền vững và duy trì tốc độ tăng trưởng cao cũng như khả năng len chân vào các thị trường ngách.
Đến nay, mới có một tỉ lệ nhỏ hàng XK Việt Nam tiêu thụ qua hệ thống phân phối trực tiếp của các DN Việt Nam trên các thị trường trọng điểm, còn lại chủ yếu là xuất qua các trung gian phân phối.
3. Lượng phát thải khí nhà kính (GHG) của Việt Nam thực sự đáng báo động, đặc biệt ở hai lĩnh vực mũi nhọn là nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và XK hàng hóa. Tính toán cho thấy, nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thải ra lượng GHG lớn nhất, gấp 3 lần mức bình quân của thế giới. Xét về phía cầu cuối cùng, sản xuất hàng XK gây nên phát thải GHG lớn nhất, chiếm trên 50% tổng lượng phát thải GHG.
4. Từ năm 2007 đến nay, NK của Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào thị trường châu Á (đặc biệt là Trung Quốc). Với tỷ trọng NK cao từ thị trường châu Á (nhập siêu chủ yếu từ các thị trường này) và xuất siêu sang các thị trường có công nghệ nguồn - Việt Nam đang đi theo lý thuyết “đàn sếu bay“ một cách tuần tự nhưng với tốc độ chậm hơn nhiều các nước mới công nghiệp hóa (NICs). Việt Nam đang bị “neo chặt” ở khâu có giá trị gia tăng thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu. Điều này sẽ gây khó khăn cho việc phát triển theo kiểu rút ngắn, đi tắt đón đầu, xác định vị thế quốc gia, nguy cơ tụt hậu rất lớn.
5. Nhập khẩu đã có chuyển biến theo hướng ưu tiên NK máy móc, thiết bị, vật tư đầu vào , kiểm soát việc NK hàng hóa xa xỉ, hàng hóa không thiết yếu, hàng hóa trong nước đã sản xuất được. Tuy nhiên trong cơ cấu NK , máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng còn chiếm tỷ trọng thấp (41%), phần lớn vẫn là công nghệ trung gian, công nghệ trung bình nên chưa tạo được động lực mạnh mẽ làm thay đổi cơ cấu xuất.
III. Định hướng và giải pháp cho thời gian tới
FTA thế hệ mới có nhiều quy định không chỉ liên quan đến tiêu chuẩn sản phẩm mà cả đối với quy trình sản xuất. Bên cạnh đó, Quy tắc xuất xứ đã,đang và luôn là vấn đề then chốt của bất kỳ một hiệp định/thỏa thuận thương mại tự do nào. Không đáp ứng quy tắc xuất xứ , hàng hóa phải chịu thuế MFN (nguyên tắc tối huệ quốc) cao hơn nhiều so với mức thuế FTA từ 0-5%.Với các FTA đã thực hiện, tỉ lệ tận dụng còn chưa cao thì với các FTA thế hệ mới, nếu không có các chương trình tập huấn kịp thời và thường xuyên, doanh nghiệp (DN) sẽ khó tận dụng ưu đãi và nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm XK của mình. Các cam kết về môi trường và lao động được cho là “bức tường rào” khiến con đường đến với thị trường FTA trở nên “gập ghềnh” hơn.
Gia tăng XK, cải thiện NK, nâng cao sức cạnh tranh là vấn đề cấp bách, mang tính thời sự trong bối cảnh hiện nay. Các giải pháp cần hướng tới là:
1. Phải gấp rút thay đổi cơ cấu thị trường theo hướng “bỏ trứng vào nhiều giỏ”, tiếp tục giữ vững XK sang các thị trường các nước thành viên CPTTP. Cần tìm hiểu thị trường ngách để tận dụng được cơ hội dù là nhỏ nhất từ CPTPP, EVFTA và FTA với Vương quốc Anh.
2. Cơ chế phối hợp thông tin không chỉ giữa các cơ quan quản lý, các hiệp hội ngành hàng, mà cần thiết lập kênh truyền tải thông tin tới DN.
Khả năng bị kiện hay trả đũa sẽ gia tăng trong thời gian tới, vì vậy việc chuẩn bị và minh bạch hoá sổ sách, kế toán, theo dõi thông tin, phối hợp công bố thông tin, nhân lực am hiểu luật lệ, vận động hành lang, ngoại giao... sẽ là những vấn đề DN phải chuẩn bị. Vai trò của Việt kiều cần được phát huy cao độ để hàng Việt Nam có thể lách chân vào các thị trường ngách.
Phát triển dịch vụ logistics nhằm hỗ trợ, kết nối và thúc đẩy phát triển hoạt động XNK, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam cũng là một vấn đề mang tính thời sự trong bối cảnh hiện nay.
3. Chuyển sang kinh tế số, các DNXK phải đương đầu với nhiều vấn đề cốt lõi như: sự tin cậy (trust), bảo mật (security) và thông tin cá nhân (privacy). Cần hoạch định cụ thể kế hoạch đầu tư về nhân sự (skills), công cụ (tools) và hạ tầng công nghệ thông tin để có những chính sách, quy trình và mô hình áp dụng phù hợp. Thương mại điện tử được xác định là một trong những giải pháp tối ưu để DN tiết giảm chi phí, mở rộng hợp tác kinh doanh.
4. Việc hoàn thiện và đổi mới chính sách, cơ chế quản lý, khuyến khích NK cạnh tranh nhằm đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng XK và hàng sản xuất thay thế NK có thể xem là hướng đi hợp quy luật trong bối cảnh hiện nay. Theo đó cần phải tiếp tục:
- Mở rộng và đa dạng hoá thị trường NK, hạn chế sự phụ thuộc quá mức vào một số thị trường. Hết sức chú trọng những thị trường có công nghệ cao, công nghệ nguồn, các thị trường NK lớn như: Nhật Bản, Đức, Ý, Pháp, Hà Lan..., duy trì NK với các nước như Canada, Áo, Đan Mạch, Ireland. Ngoài ra cũng có thể xem xét gia tăng NK từ thị trường ngách.
- Rà soát danh mục hàng hóa NK thuộc diện quản lý chuyên ngành với các quy định về điều kiện kỹ thuật chặt chẽ, trong đó quy định trách nhiệm cụ thể cho từng Bộ, ngành và công bố công khai thời hạn áp dụng.
- Kết hợp thuế bảo vệ môi trường vào hệ thống thuế NK. Thử nghiệm đấu giá các giấy phép NK đối với những hàng hoá gây ảnh hưởng lớn đến môi trường sinh thái - một chính sách cần thiết điều chỉnh trực tiếp đối với các sản phẩm tác động đến môi trường, phát thải các chất gây hiệu ứng nhà kính (như ô tô bốn chỗ ngồi, các hoá chất có gốc CFC…).
5. Rà soát, điều chỉnh, hoàn thiện các luật và chính sách đã ban hành về NK và liên quan tới NK như Luật Thương mại, luật Thuế XNK… tương thích với các cam kết và điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc đang đàm phán.
Nếu không phát triển nhanh các ngành công nghiệp hỗ trợ, Việt Nam có thể XK nhiều hơn, nhưng khó thoát khỏi “kiếp gia công”. Việc xây dựng Luật Công nghiệp hỗ trợ, để tận dụng được làn sóng chuyển dịch vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành vấn đề cấp bách.
Vận dụng linh hoạt các luật và quy định của WTO và các FTA thông qua: (i) Chủ động và linh hoạt áp dụng các biện pháp thuế CBPG, thuế đối kháng, các biện pháp tự vệ cũng như các tiêu chuẩn kỹ thuật, lao động và tiêu chuẩn môi trường nhằm kiểm soát NK theo mục tiêu đã đặt ra trong chiến lược XNK; (ii) Xây dựng các rào cản kỹ thuật phù hợp với các cam kết quốc tế và (iii) Tăng cường quản lý thị trường, kiểm tra, kiểm soát, chống buôn lậu, chống hàng giả và gian lận thương mại.
6. Tăng cường công tác xúc tiến thương mại (XTTM), trước mắt ưu tiên triển khai các hoạt động xúc tiến XK đối với các thị trường sớm khôi phục sau dịch Covid-19. Tập trung, ưu tiên các hoạt động XTTM hỗ trợ nâng cao năng lực của DN trong việc đáp ứng được tiêu chuẩn, quy định của thị trường NK (từ thông tin thông tin về ngành hàng, thị trường, về các rào cản thương mại đến hỗ trợ chuyên gia tư vấn cách thức tiếp cận, áp dụng và tuân thủ các quy định, tiêu chuẩn, điều kiện của các tổ chức NK, cam kết quốc tế về sản phẩm XK...).
7. Chiến lược phát triển thương hiệu cần thống nhất xác định trong thời gian dài và có sự đảm bảo nhất định về tài chính để có đủ khả năng ổn định phát huy thế cạnh tranh năng động cho một vài nhóm sản phẩm với phân khúc thị trường mục tiêu rõ ràng.
8. Để thúc đẩy sự tham gia của các DN trong chuỗi cung ứng toàn cầu, cần chú trọng đào tạo lại việc ứng dụng các kỹ năng nghiên cứu thị trường, marketing, kỹ năng đàm phán quốc tế, nghiệp vụ kỹ thuật ngoại thương, nâng cao trình độ ngoại ngữ, ứng dụng tin học, nâng cao tay nghề.
9. Rất cần có bộ máy chuyên môn với chức năng nhiệm vụ rõ ràng, thực thi việc theo dõi, giám sát, đánh giá hiệu lực của pháp luật và thể chế, kiểm soát độ mở của nền kinh tế. Ủy ban Đối ngoại hoặc Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cần có chương trình, kế hoạch (không nhất thiết phải giám sát tối cao), định kỳ 6 tháng hay một năm yêu cầu cơ quan chủ trì thực hiện các FTA báo cáo.
Phát triển, mở rộng hợp tác với các quốc gia và vùng lãnh thổ, củng cố, nâng cao năng lực cạnh tranh ở cả 3 phạm vi: quốc gia - DN - sản phẩm, mở cửa thị trường, kiểm soát chất lượng sản phẩm hàng hóa, hình thành chuỗi cung ứng với sự tham gia của các DN Việt Nam và các đối tác, song hành với hai việc quan trọng: i) cập nhật chiến lược FTA, lựa chọn đối tác đàm phán (thận trọng, có nguyên tắc) và ii) thúc đẩy tiêu dùng trong nước. Đây có thể xem là lối mở hợp quy luật đối với trong bối cảnh hiện nay. Câu hỏi này nằm về phía Chính phủ, mỗi Bộ, Ngành, từng địa phương và mỗi người dân trong sự quyết tâm để tạo nên đột phá - bước ngoặt mà chúng ta cần tiến đến trong những năm đầu tiên của thập kỷ này./.
Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo Tổng kết Ngành Công Thương 2018; 2019; 2020
2. Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương: Về ứng phó và sử dụng hiệu quả các biện pháp phòng vệ thương mại, Hà Nội 14/3/2014
3. Gato Keita (2007), Phân tích và triển vọng chuỗi giá trị toàn cầu, Industrial upgraching of the Việt Nam goverment Industrial, RCAPS working paper No 07.
4. Thời báo Kinh tế Sài Gòn năm 2018; 2019; 2020.
5. Đoàn Thị Hồng Vân, Kim Ngọc Tuấn (2014), Chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu - Những vấn đề lý luận và thực tiễn tại Việt Nam, Sách chuyên khảo Kinh tế và Quản lý chuỗi cung ứng, NXB Lao động xã hội.
Vũ Huy Hùng
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến thương mại - VIOIT