NGHIÊN CỨU

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Nghiên cứu

Xuất khẩu dệt may trong bối cảnh mới - vấn đề và giải pháp

24/06/2023

Kết quả đạt được

Ngành dệt may, với hơn 13.000 doanh nghiệp (DN), là lĩnh vực xuất khẩu hàng đầu của cả nước. Việt Nam xếp thứ 5 trên thế giới về xuất khẩu hàng dệt may và có lực lượng lao động trong ngành khoảng trên 2 triệu người, trong đó 1,3 triệu người làm việc trực tiếp.

Dệt may luôn dẫn đầu trong nhóm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Năm 2015, dệt may giữ vững ngôi vị thứ 2, đạt kim ngạch 27 tỷ USD, tăng trên 10% so với năm 2014. Năm 2018 và 2019, sản xuất và xuất khẩu dệt may vẫn tiếp tục tăng, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành Dệt May đạt 30,5 và 32,8 tỷ USD. Các năm 2020,2021, các con số tương ứng là 29,8 - 32,8 tỷ USD. Năm 2022, xuất khẩu dệt may Việt Nam đạt 37,5 tỷ USD, đứng thứ 3 về quy mô, sau Trung Quốc và Bangladesh. Tuy nhiên, xét về tốc độ tăng trưởng, Việt Nam đứng thứ hai sau Bangladesh, với mức tăng 10,5-11%.

Đến nay, hàng dệt may Việt Nam hiện đã có “chỗ đứng” tại hầu hết các thị trường trên thế giới. Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh, Đức và Trung Quốc là các thị trường tiêu thụ chủ yếu các loại hàng dệt may của Việt Nam.

Bối cảnh và những vấn đề đặt ra

Đến nay,Việt Nam đã tham gia đàm phán 18 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có 15 FTA đã ký kết,có hiệu lực, 01 FTA đã kết thúc đàm phán và 02 FTA đang đàm phán (FTA Việt Nam - EFTA; FTA Việt Nam - UAE). Các FTA đã đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn (200% GDP), tiếp cận và thiết lập quan hệ thương mại với gần 230 thị trường. Với việc thực thi các FTA thế hệ mới, Việt Nam được hưởng lợi lớn từ làn sóng đầu tư mới, hình thành năng lực sản xuất mới, có điều kiện tăng tốc mở cửa với thế giới, tạo lập một nền kinh tế thị trường theo đúng nghĩa của nó. Khung khổ pháp lý của các hiệp định sẽ là khuôn mẫu cho việc vận hành các nền kinh tế trong thế kỷ XXI với những quy phạm, quy định cao hơn, toàn diện hơn. Việt Nam sẽ được chơi trên một sân chơi đẳng cấp có nhiều cơ hội để kết nối sâu hơn với kinh tế toàn cầu.

Các FTA sẽ giúp chúng ta có cơ hội cơ cấu lại xuất nhập khẩu lành mạnh hơn, tránh phụ thuộc quá mức vào một thị trường. Theo dự báo,thương mại hai chiều giữa Việt Nam và các đối tác sẽ tăng cao sau khi có FTA, khía cạnh này được thể hiện rõ hơn trong quan hệ FTA với những đối tác có cơ cấu xuất nhập khẩu mang tính bổ sung như Nhật Bản, Australia, New Zealand, Hàn Quốc. Với các đối tác còn lại (ASEAN, Trung Quốc, Ấn Độ) tính bổ sung thấp, nếu như không nói là cạnh tranh, đặc biệt là với Trung Quốc. Việc ký kết các FTA, nhìn chung sẽ giúp Việt Nam đỡ bị thiệt hại hơn là có lợi, do vậy, cần có cái nhìn chừng mực về vấn đề này.

Với Việt Nam, xuất khẩu dệt may đã trở thành một trong những động lực của tăng trưởng kinh tế, đem lại nguồn thu ngoại tệ ngày càng lớn cho đất nước, góp phần giải quyết việc làm,tăng thu nhập, xóa đói, giảm nghèo. Trong bối cảnh mới, việc gia tăng kim ngạch phải song hành với việc nâng cao giá trị gia tăng và hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của các FTA mà chúng ta đã ký kết.

Trong bối cảnh công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển, phần lớn nguyên liệu sản xuất (chiếm tỷ lệ khá cao trong trị giá sản phẩm) phục vụ xuất khẩu đang được nhập từ Trung Quốc, các nước ASEAN, Hàn Quốc… nếu các FTA có yêu cầu cao về tỷ lệ xuất xứ nội khối thì đây rõ ràng là một đòi hỏi không dễ dàng đối với doanh nghiệp (DN) Việt Nam nếu muốn được hưởng ưu đãi thuế từ các FTA này.

Theo dự báo dệt may là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực sẽ hưởng lợi lớn khi Việt Nam tham gia các FTA. Các FTA đã có hiệu lực có thể sẽ làm gia tăng nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may từ các nước khác. Đầu tư và sản xuất vải, sợi đang tăng lên, đặc biệt là ngành dệt và ngành sản xuất sợi. Nhiều công ty dệt may trong khu vực cũng đã bắt đầu chuyển các cơ sở sản xuất sang Việt Nam.

Tuy nhiên, xu hướng đa dạng hóa thị trường xuất khẩu của Việt Nam nhìn chung diễn ra chậm hơn so với mục tiêu mà các cơ quan chính sách đặt ra, việc tìm kiếm mở rộng thị trường xuất khẩu mới với DN ngành này là không đơn giản. Khi FTA Việt Nam - Hàn Quốc có hiệu lực, Phong Phú là đơn vị hiếm hoi trong ngành dệt may xuất khẩu vải sang Hàn Quốc. Trong khi đó, nhiều DN dệt may khác không dễ khai thác được thị trường này, trong khi đây là một nguồn cung cấp lớn nguyên phụ liệu dệt may cho Việt Nam.

Ngay khi FTA giữa Việt Nam với Liên minh kinh tế Á - Âu (Nga, Belarus, Kazakhstan, Armenia, Kyrgyzstan) có hiệu lực, nhiều DN đã tìm kiếm cơ hội xuất khẩu vào khu này, kỳ vọng rất lớn từ thị trường Nga. Hiệp định có hiệu lực từ tháng 10/2016 nhưng đến nay nhiều DN Việt vẫn còn ở giai đoạn tìm kiếm cơ hội xúc tiến thương mại ở Nga, nghiên cứu thị trường Nga, chưa tìm được khách hàng và đơn hàng như kỳ vọng do nhiều khó khăn liên quan đến khâu thanh toán, giá cả. Đây là thị trường có tiềm năng lớn, nên nếu giải quyết được khâu thanh toán, DN sẽ có nhiều cơ hội làm ăn.

Ngành dệt may hiện đang bộc lộ sự mất cân đối giữa các công đoạn sản xuất, mạnh về khâu gia công xuất khẩu nhưng lại yếu và thiếu tập trung ở khâu dệt nhuộm. Khoảng 70% các sản phẩm dệt may của Việt Nam là hàng gia công, sử dụng vải và các nguyên liệu nhập khẩu, chủ yếu từ Trung Quốc, Hàn Quốc. Việc gia tăng nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may từ các nước khác cũng đang có xu hướng gia tăng.

Các số liệu thống kê từ Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS) cho thấy 70% trong số hơn 3.800 nhà máy dệt sản xuất các sản phẩm may mặc, chỉ có 6% sản xuất sợi,17% sản xuất vải và 4% là các cơ sở nhuộm. Giá trị tăng thêm của dệt may cao hơn một số ngành khác chủ yếu do hàm lượng lao động trong sản phẩm khá lớn. Tỷ lệ các DN trong nước tham gia vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI hầu như không đáng kể.

Thực tế cho thấy: sản lượng bông trong nước mới chỉ đáp ứng được khoảng 1% nhu cầu; xơ, sợi khoảng 30%; vải 20%; công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển. Công đoạn may phát triển mạnh nhưng với phương thức gia công xuất khẩu (CMT) là chủ yếu (65%), phương thức mua nguyên liệu bán thành phẩm do khách hàng chỉ định hoặc tự khai thác (FOB I và FOB II) khoảng 25%; tự thiết kế, sản xuất và thương hiệu, tự thiết kế đến phân phối (ODM và OBM) chỉ 10%.                          

Nhà nước có một số chính sách ưu đãi cho ngành, nhưng một thời gian dài mang tính dàn trải, không tập trung vào những công đoạn thực sự khó khăn, phức tạp (như dệt, nhuộm hoàn tất, công nghiệp phụ trợ...), dẫn đến việc nhiều DN lựa chọn phương thức “dễ làm khó bỏ”, phát triển không cân đối, đầu tư chủ yếu cho công đoạn may, gia công xuất khẩu để tránh rủi ro.

Doanh nghiệp may Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu


Đặng Như Vân (2005), Vietnamese T&G Firms in the Global Value Chain: If and how value added pay off , VERN sub-project

Năm 2023 và giai đoạn tiếp theo có thể là thời đoạn với nhiều khó khăn đối với cộng đồng DN. Xu hướng chống toàn cầu hóa gia tăng, lạm phát và thắt chặt chi tiêu và cuộc “cách mạng công nghiệp lần thứ 4” đang ập tới… những nhân tố dẫn tới sự đảo chiều của thương mại và đầu tư quốc tế và sẽ có ảnh hưởng lớn đến các nền kinh tế mới nổi, có độ mở cao, coi xuất khẩu và đầu tư nước ngoài là những động lực tăng trưởng.

Việt Nam sẽ vẫn phải đối mặt với những thách thức to lớn từ những xu hướng mới của bảo hộ mậu dịch, ở mức độ tinh vi hơn, dễ thay đổi và khó tiên lượng hơn trước rất nhiều. Để nâng cao hơn nữa kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam thông qua mạng lưới phân phối nước ngoài thì việc đáp ứng các “tiêu chí bền vững” là yếu tố hết sức quan trọng.

Người tiêu dùng thế giới đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng sản phẩm, an toàn sức khỏe con người, an toàn đời sống động thực vật và bảo vệ môi trường sinh thái. Các công ty giám sát theo chuỗi giá trị ngay từ đầu, từ nguyên liệu gia công, quy trình sản xuất và đóng gói, qua nhà phân phối tới người tiêu dùng, sử dụng cuối cùng để đảm bảo tiêu thụ được sản phẩm, mang lại lợi ích cho toàn chuỗi, đồng thời đáp ứng kỳ vọng khách hàng và quy định của Chính phủ đối với vấn đề về bảo vệ môi trường và trách nhiệm xã hội doanh nghiệp.

Các quốc gia nhập khẩu hàng trên thế giới dần yêu cầu sản phẩm Việt Nam phải đáp ứng trách nhiệm xã hội, sản xuất thân thiện môi trường, sử dụng nguồn năng lượng, tài nguyên thiên nhiên thấp nhất.

Nhiều chuyên gia kinh tế nhận định, thế giới đang thay đổi nhanh chóng và một khi các thông lệ tự nguyện trở thành tiêu chuẩn bắt buộc, cạnh tranh trên thị trường sẽ trở nên rất gay gắt. Vì vậy, việc theo đuổi chiến lược xuất khẩu xanh với mục đích xanh hóa sản phẩm sẽ giúp khách hàng trên thị trường nước ngoài có thiện cảm hơn với sản phẩm của các DN, tạo nên lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, chuyển đổi sang sản xuất xanh, xuất khẩu xanh đòi hỏi vốn đầu tư lớn và công nghệ cao mà không phải DN nào cũng có đủ năng lực để theo đuổi và đáp ứng được.

Thông tin từ Bộ Công Thương cho thấy, không chỉ các tập đoàn phân phối mới đặt yêu cầu về môi trường và phát triển bền vững với hàng hóa Việt Nam, với mục tiêu đưa phát thải các-bon về bằng 0, hiện EU cũng đã triển khai thực thi Thỏa thuận Xanh châu Âu. Cơ chế điều chỉnh biên giới các-bon (CBAM) của EU sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các sản phẩm, các nhà xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường khu vực này. Nhìn chung, đây là công cụ tốt để hạn chế phát thải ra môi trường, giảm tác động của biến đổi khí hậu. Các chuyên gia cho rằng CBAM có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam vì nền kinh tế khoảng 100 triệu dân là nước đang xuất khẩu nhiều vào EU. EU cũng yêu cầu bao bì phải được làm bằng vật liệu thân thiện với môi trường và có thể tái chế hoàn toàn. Quy định này sẽ tác động đến các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực sản xuất bao bì, cũng như doanh nghiệp sử dụng bao bì cho các sản phẩm xuất khẩu.

Theo đó, một trong những ngành của Việt Nam có thể bị ảnh hưởng bởi Thỏa thuận Xanh châu Âu là dệt may. Cụ thể, EU yêu cầu các sản phẩm dệt may phải được sản xuất bằng vật liệu và quy trình thân thiện với môi trường, đồng thời phải được dán nhãn sinh thái nghiêm ngặt.

Ngành dệt may Việt Nam đã và đang phải cạnh tranh quyết liệt với sản phẩm của các nước khác trong bối cảnh khách hàng không chỉ đòi hỏi về chất lượng, giá bán, thời gian giao hàng mà còn đưa ra yêu cầu cao hơn về điều kiện bảo vệ môi trường khi ký các đơn hàng xuất khẩu. Các nước có tiềm lực lớn về dệt may như Ấn độ, Bangladesh, Myanmar đang phát triển hàng may mặc xanh hướng mạnh tới xuất khẩu. Họ sẽ là đối thủ cạnh tranh chính với hàng dệt may Việt Nam do đã “xanh hóa” được sản phẩm cùng chi phí lao động ở những nước này chỉ bằng một nửa chi phí lao động tại Việt Nam.

Các thương hiệu may mặc lớn trên thế giới, đối tác đặt đơn hàng của ngành dệt may Việt Nam, đang chuyển sang ưu tiên các “doanh nghiệp xanh”. Những doanh nghiệp gây ô nhiễm trong quá trình sản xuất, không áp dụng các giải pháp tiết kiệm năng lượng, tài nguyên thiên nhiên… có nguy cơ bị ngừng tiếp nhận đơn hàng hoặc bị từ chối đặt hàng như Uniqlo, Zara, H&M, Puma, Nike… cùng với hàng trăm nhãn hàng thời trang khác trên thế giới cam kết sản xuất bền vững và có trách nhiệm xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu tiêu dùng xanh đang tăng của người tiêu dùng cũng như bảo vệ môi trường sống. Điều này đã và đang đặt ra nhiều thách thức với các nhà cung cấp trên thế giới, trong đó có nhiều doanh nghiệp Việt Nam.

Mặc dù đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao trong thời gian qua, nhưng dệt may Việt Nam hiện vẫn ở vị trí dưới đáy của “đường cong nụ cười” trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu với giá trị gia tăng thấp. Ngoài các nước như Sri Lanka, Campuchia... đang cùng ở “vùng trũng” như Việt Nam, các đối thủ cạnh tranh xuất khẩu khác (Bangladesh, Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan, Pakistan...) đều có vị trí cao hơn trong chuỗi cung ứng. Như vậy đã đến lúc phải tập trung nâng cao giá trị gia tăng, đáp ứng quy tắc xuất xứ của FTA để nâng cao hiệu quả, thay vì tập trung gia tăng kim ngạch xuất khẩu. Ngành cũng cần chuyển đổi nhanh sang phương thức sản xuất ODM, đầu tư mới, đầu tư mở rộng phải theo hướng tiếp cận công nghệ hiện đại. Xây dựng kế hoạch đào tạo, đào tạo lại người lao động theo tiêu chuẩn công nghệ mới.

Theo “Chiến lược phát triển ngành dệt may, da giày Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035”, dự kiến kim ngạch xuất khẩu bình quân sẽ tăng từ 5% - 6%/năm trong giai đoạn đến năm 2030 (năm 2030 dự kiến 68 - 70 tỷ USD); tăng từ 2-3%/năm trong giai đoạn từ 2031 đến 2045 (năm 2045 đạt khoảng 95 - 100 tỷ USD). Tiến trình xanh hóa là mục tiêu mà ngành dệt may đã đưa ra trong suốt 5 năm qua. Hiện nay, tỷ trọng chương trình phát triển xanh hoá trong lĩnh vực dệt may đã chiếm trên 50%; năm 2023 mục tiêu là đạt tỷ lệ trên 70%.

Giai đoạn định hướng phát triển nhanh của ngành dệt may Việt Nam đã qua. Từ năm 2030 - 2045, phải chuyển dần trọng tâm sang phát triển hiệu quả, bền vững theo mô hình kinh tế tuần hoàn. Hoàn thiện chuỗi giá trị trong nước và tham gia ở vị trí có giá trị cao trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Xuất khẩu và tiêu thụ trong nước bằng các thương hiệu riêng mang tầm khu vực và thế giới. Tuy nhiên, do nguồn cung nguyên phụ liệu phụ thuộc lớn vào nhập khẩu (bông, xơ, vải, phụ liệu), khâu dệt nhuộm chưa có quy hoạch không gian phát triển và xử lý nước thải tập trung. Nhiều địa phương vẫn không mặn mà với việc cấp phép các dự án dệt, nhuộm. Chi phí sẽ tăng cao nên nhiều DN, nhất là DN vừa và nhỏ chưa quyết tâm hoặc chưa đủ nguồn lực cũng là thách thức lớn. Bên cạnh đó, các thị trường xuất khẩu chủ yếu của dệt may Việt Nam đòi hỏi phải đẩy nhanh “xanh hóa” sản xuất và sản phẩm…

Lối mở và giải pháp cho thời gian tới

1. Về phía nhà nước

Các doanh nghiệp giờ chỉ có hai lựa chọn: Một là phải xanh hóa và phải chấp nhận thay đổi, hai là đứng nhìn đơn hàng, khách hàng đi nơi khác. Một số doanh nghiệp xuất khẩu lĩnh vực dệt may đang hướng đến đầu tư công nghệ sản xuất hiện đại, sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm khi xuất khẩu. Đây cũng là thách thức với các doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa vì nguồn tài chính còn hạn chế. Một số ý kiến cho rằng, để cải thiện hiện trạng sản xuất của doanh nghiệp, ngoài sự nỗ lực của DN, thì rất cần sự hỗ trợ từ Chính phủ, các tổ chức tài chính, các nhãn hàng dệt may, da giày…

Thực hiện chương trình giảm khí thải: Nhà nước có thể hỗ trợ các doanh nghiệp bằng cách cung cấp các khoản vay ưu đãi hoặc hỗ trợ tài chính cho các dự án phát triển năng lượng tái tạo, tăng cường hiệu suất năng lượng và sử dụng nguồn năng lượng sạch.

Hỗ trợ đổi mới công nghệ: Đổi mới công nghệ song song với tiết kiệm năng lượng, nhà nước cần khuyến khích ngân hàng cho vay vốn với chi phí thấp. Việc khuyến khích đầu tư vào công nghệ xanh cũng cần có hỗ trợ về thuế và miễn giảm phí để doanh nghiệp có sức đầu tư.

Hỗ trợ đào tạo: Đối với các cơ sở đào tạo dệt may, đề nghị hỗ trợ công cụ, thiết bị dạy học, thực hành, mời giảng viên là chuyên gia từ các nước. Đặc biệt cần hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo và phát triển nhân lực về kinh tế xanh.

Song song với những việc làm trên, cần quy hoạch và cấp phép các khu công nghiệp dệt may lớn tại ba miền Bắc, Trung, Nam. Thu hút, ưu đãi đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ..., kiên quyết không dành ưu đãi cho các dự án sản xuất hàng may mặc và sợi do Việt Nam đã có đủ điều kiện để tự đầu tư.

Nghiên cứu sửa đổi chính sách thuế tạo thuận lợi cho DN khi sử dụng nguyên phụ liệu (NPL) trong nước để sản xuất hàng xuất khẩu. Hiện tại các DN khi mua NPL nội địa phải nộp ngay thuế giá trị gia tăng 10%, trong khi theo Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có hiệu lực từ ngày 1-9-2016, thì NPL nhập khẩu để gia công xuất khẩu được miễn thuế thay vì nộp trước và hoàn thuế sau như trước đây.

Với nguồn lực cho hoạt động xúc tiến thương mại (XTTM) còn mỏng, cần triển khai hoạt động XTTM có trọng tâm, trọng điểm. Các cơ quan XTTM của Chính phủ cần chủ động cung cấp cho các DN các thông tin liên quan đến thị trường nước ngoài, thực hiện hoạt động khảo sát một số thị trường nước ngoài trọng điểm và hỗ trợ DN xây dựng và phát triển thương hiệu tại các thị trường mà Việt Nam có tiềm năng xuất khẩu. Trong ngắn hạn, cần tăng cường XTTM, chương trình làm việc giữa Việt Nam và các quốc gia để mở rộng thị trường xuất khẩu; trong đó tập trung vào các quốc gia trong khối CPTPP và EU - những nơi mà Việt Nam đã ký những FTA.

Chính sách giữ ổn định tỷ giá của đồng Việt Nam so với một số đồng ngoại tệ khác cũng khiến hàng dệt may Việt Nam trở lên đắt hơn và giảm sức cạnh tranh so với các nước.Về mặt lý thuyết, việc một quốc gia chủ động hạ giá đồng nội tệ sẽ hỗ trợ xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu của quốc gia đó. Tuy nhiên, điều này chỉ có tác dụng đối với những đồng tiền mà có hiệu ứng chuyển của tỷ giá hối đoái (exchange rate pass-through effects) thấp đối với lạm phát và tăng trưởng.Tuy nhiên,Việt Nam lại là quốc gia có hiệu ứng chuyển của tỷ giá hối đoái tương đối cao. Điều này hàm ý rằng, để đảm bảo ổn định vĩ mô, Việt Nam vẫn cần phải duy trì ổn định tỷ giá. Hay nói cách khác, chúng ta không thể trông đợi vào chính sách phá giá nội tệ để hỗ trợ xuất khẩu như một số quốc gia khác.

2. Tập đoàn Dệt May (Vinatex)

Đầu tư cho hoạt động nghiên cứu, xây dựng hệ thống thông tin tổng hợp về thị trường và các đối tác để cung cấp cho các DN, công ty (CT). Liên kết với các cơ sở đào tạo và thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn nhằm đạo tạo bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực marketing điện tử (E-marketing). Là đầu mối tìm kiếm, huy động nguồn vốn hỗ trợ cho các DN đầu tư nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin để phát triển chiến lược marketing điện tử.

Khai thác, thiết lập và tăng cường mối quan hệ với các DN, CT Việt Nam ở nước ngoài, ban quản lý các hội chợ, tuần lễ thời trang để giúp cho các DN, CT thành viên có điều kiện tiếp cận và phát triển các hoạt động phối hợp, nhằm đẩy mạnh marketing truyền thống bên cạnh chương trình marketing điện tử để quảng bá thương hiệu, giới thiệu sản phẩm may mặc của Vinatex ra thị trường quốc tế.

Phối hợp với Tổng cục Du lịch, các các cổng thông tin du lịch trong việc tạo ra các chương trình xúc tiến có quy mô ngành nhằm giới thiệu sản phẩm may mặc của Vinatex tới các khách du lịch từ đó tăng cường sự nhận biết, quảng bá thương hiệu may mặc Việt Nam .

3. Hiệp hội Dệt May (Vitas)

Hiệp hội ngành hàng cần phải đóng vai trò tích cực và quan trọng hơn trong việc cung cấp các thông tin chuyên ngành cho các hội viên của mình nhanh nhất với chi phí thấp nhất. Tổ chức tuyên truyền phổ biến một cách sâu rộng kiến thức về thương mại điện tử cũng như lợi ích mà E-marketing mang lại. Thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo về E-marketing, hỗ trợ, cung cấp thông tin về thị trường quốc tế cho các DN, CT. Tăng cường đầu tư xây dựng, phát triển, nâng cấp cổng thông tin thương mại điện tử giúp các DN, CT có thể quảng bá hình ảnh  thương hiệu và sản phẩm một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất.

4. Về phía các doanh nghiệp

Để tạo lợi thế cạnh tranh, các DN dệt may Việt Nam  cần bám theo bốn giá trị cốt lõi để đầu tư phát triển gồm: năng suất - chất lượng - tiết kiệm năng lượng - bảo vệ môi trường. Trong thời gian tới, cần tập trung vào (i) hoạch định và thực hiện chiến lược sản xuất, kinh doanh; (ii) đẩy mạnh liên kết và hợp tác; (iii) nỗ lực củng cố, nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, năng lực quản lý, chất lượng dịch vụ, xây dựng và phát triển thương hiệu, chủ động, tích cực mở rộng hoạt động trên phạm vi toàn cầu...

Các DN, CT mạnh trong nước cần phối hợp triển khai dự án lớn tại các trung tâm dệt may. Hình thành chuỗi liên kết dệt - may - phụ liệu tại mỗi vùng, miền. Phát triển thương hiệu mới để sản xuất theo phương thức ODM, OBM phục vụ thị trường nội địa, từng bước vươn ra thị trường xuất khẩu với sản phẩm mang thương hiệu của mình. Ứng dụng công nghệ hiện đại in 3D trong thiết kế thời trang đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đơn lẻ của khách hàng, lựa chọn các công đoạn phù hợp để tự động hóa, số hóa, chuẩn bị các điều kiện thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Nâng cao nhận thức, tìm hiểu kỹ những thách thức và cơ hội khi đổi mới hoạt động kinh doanh sang mô hình tuần hoàn. Có bước đi thích hợp, tập trung vào những khâu DN có thế mạnh,như tuần hoàn nước, điện áp mái… tính toán lợi ích - chi phí, lộ trình chuyển đổi. Tập hợp các tài liệu liên quan đến truy soát nguồn gốc nguyên phụ liệu, yêu cầu tỷ lệ tái chế, vòng đời sản phẩm…

Đẩy nhanh việc ứng dụng E-marketing: bao gồm việc phân tích môi trường và hành vi người nhận tin, định vị thị trường mục tiêu, thiết lập các chương trình cung ứng giá trị thông qua các chương trình quảng cáo, quan hệ công chúng, bán hàng trực tuyến... nhằm hướng tới khách hàng (người tiêu dùng cuối cùng và/hoặc khách hàng là DN).

  Mô hình phát triển marketing điện tử của doanh nghiệp

 

Vũ Huy Hùng

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT

TS. Nguyễn Thanh Bình 

Học viện Ngân hàng

BÀI VIẾT KHÁC