NGHIÊN CỨU

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Nghiên cứu

Xu hướng mới trong phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam

25/08/2022

1. Thực trạng phát triển các khu công nghiệp thời gian qua:

1.1. Số lượng các khu công nghiệp (KCN) được thành lập và đi vào hoạt động

Năm 2020: Theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến cuối năm 2020, trên phạm vi cả nước có 369 KCN được thành lập (bao gồm 329 KCN nằm ngoài các KKT, 34 KCN nằm trong các KKT ven biển, 06 KCN nằm trong các KKT cửa khẩu) với tổng diện tích đất tự nhiên đạt khoảng 114 nghìn ha. Trong đó, diện tích đất công nghiệp đạt khoảng 73,6 nghìn ha, chiếm khoảng 59,3% diện tích đất tự nhiên.

Trong số 369 KCN đã được thành lập nêu trên, có 284 KCN đang hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên đạt khoảng 85 nghìn ha, diện tích đất công nghiệp đạt khoảng 57,1 nghìn ha và 85 KCN đang xây dựng cơ bản với tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 29 nghìn ha, diện tích đất công nghiệp đạt khoảng 16,5 nghìn ha.

Tổng diện tích đất công nghiệp đã cho thuê của các KCN đạt 42,2 nghìn ha, đạt tỷ lệ lấp đầy các KCN đạt 57,4%, riêng các KCN đã hoàn thành công tác giải phóng mặt bằng và đi vào hoạt động có tỷ lệ lấp đầy khoảng 70,2%. Các KCN, KKT trên địa bàn cả nước đã tạo việc làm cho khoảng 3,83 triệu lao động trực tiếp.

Các KCN được thành lập trên 61 tỉnh, thành phố, chủ yếu tập trung tại các vùng kinh tế trọng điểm nhằm phát huy lợi thế về vị trí địa lý và tiềm năng phát triển kinh tế của các vùng. Cụ thể, các vùng đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Nam Bộ hiện có tổng cộng 207 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên đạt khoảng 70,5 nghìn ha, diện tích đất công nghiệp đạt khoảng 47,2 nghìn ha, chiếm tương ứng 56,1% về số lượng, 61,9% về diện tích đất tự nhiên và 64,2% về diện tích đất công nghiệp so với cả nước.

Tính hết năm 2021, có 397 KCN được thành lập, bao gồm 352 KCN nằm ngoài các KKT, 37 KCN nằm trong các KKT ven biển, tám KCN nằm trong các KKT cửa khẩu, với tổng diện tích đất tự nhiên đạt khoảng 122.900 ha. Trong đó có 291 KCN đã đi vào hoạt động, tỉ lệ lấp đầy đạt 71%, xấp xỉ so với cuối năm 2020.

Sáu tháng đầu năm 2022, có chín KCN mới được thành lập với tổng diện tích 2.472 ha, tổng vốn đầu tư các dự án đạt 29.411 tỉ đồng.

1.2. Đánh giá chung về thành tựu và hạn chế trong phát triển các khu công nghiệp Việt Nam

Các khu công nghiệp đã có những đóng góp tích cực vào thành tựu tăng trưởng và phát triển của Việt Nam, thông qua việc thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; khơi dậy và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước, bổ sung nguồn vốn quan trọng trong tổng vốn đầu tư xã hội; gia tăng kim ngạch xuất khẩu, góp phần mở rộng thị trường quốc tế, thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu; đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách và tạo việc làm.

Bên cạnh những đóng góp trực tiếp nêu trên, việc hình thành và phát triển khu công nghiệp đã có tác động lan tỏa đến các khu vực khác của nền kinh tế, trong đó có việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp, góp phần đưa Việt Nam từng bước tham gia chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu; phát triển đô thị; thúc đẩy liên kết ngành và liên kết vùng; bảo vệ môi trường sinh thái; mở rộng quan hệ đối ngoại… Việc phát triển mô hình khu công nghiệp đã góp phần tích cực trong việc hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, khuyến khích đổi mới thủ tục hành chính.

Mặc dù đạt được những kết quả quan trọng nêu trên, song việc phát triển khu công nghiệp thời gian qua cũng bộc lộ một số hạn chế. Cụ thể, quy hoạch phát triển khu công nghiệp chưa thể hiện rõ được tầm nhìn chiến lược, tổng thể. Tại một số nơi, quy hoạch và phát triển khu công nghiệp chưa sát với nhu cầu phát triển và khả năng thu hút đầu tư.

Đồng thời, việc tập trung các khu công nghiệp tại một số địa phương, tuyến quốc lộ gây áp lực lớn về hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội khu vực xung quanh khu công nghiệp; mô hình phát triển khu công nghiệp còn chậm đổi mới; chất lượng, hiệu quả thu hút đầu tư và hiệu quả sử dụng đất tại khu công nghiệp còn chưa cao; khu công nghiệp phát triển chưa bền vững và cân bằng về kinh tế, môi trường và xã hội; hỗ trợ đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật và xã hội trong và ngoài khu công nghiệp còn thấp so với nhu cầu. Đặc biệt, hạ tầng xã hội, bao gồm nhà ở công nhân, các thiết chế văn hóa, thể thao, phúc lợi phục vụ người lao động trong khu công nghiệp còn thiếu và chưa được gắn kết, đồng bộ với phát triển KCN. Điều này đã bộc lộ trong đại dịch Covid-19 bùng phát lần thứ tư, cho thấy hầu hết các khu công nghiệp các địa phương chưa quan tâm đến việc đầu tư xây dựng nhà lưu trú công nhân, nên không đảm bảo được việc thực hiện “3 tại chỗ”. Quỹ đất 20% để thực hiện xây nhà ở xã hội hay nhà lưu trú cho công nhân nhiều nơi không có hoặc không được triển khai. Bộ Xây dựng đã có văn bản chỉ đạo đến các địa phương khi lập, phê duyệt quy hoạch khu công nghiệp, phải bố trí diện tích đất phù hợp trên địa bàn để xây dựng nhà công nhân, đảm bảo đồng bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội để phục vụ công nhân, người lao động làm việc tại khu công nghiệp.

2. Xu hướng mới trong phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam

Các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển tiếp tục coi khu công nghiệp là mô hình hiệu quả để phát triển công nghiệp và thu hút đầu tư. Các mô hình khu truyền thống hướng đến xuất khẩu và dựa chủ yếu vào ưu đãi về tài chính đang được chuyển đổi mạnh mẽ nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh dựa trên mô hình quản lý tiên tiến; hợp tác, cộng sinh công nghiệp để sử dụng hiệu quả nguyên vật liệu, năng lượng, tài nguyên, chia sẻ dịch vụ dùng chung. Bên cạnh đó, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư thúc đẩy chuyển đổi mô hình sản xuất, hợp tác kinh doanh, chuỗi giá trị toàn cầu; phương thức điều hành, tổ chức và huy động nguồn lực của doanh nghiệp, chuyển đổi doanh nghiệp từ số hóa đơn giản sang hình thức đổi mới sáng tạo dựa trên sự kết hợp nhiều loại công nghệ. Qua đó, ảnh hưởng đến mô hình, định hướng phát triển của khu công nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới.

Về tình hình trong nước, Việt Nam đang bước vào một giai đoạn mới, đòi hỏi phải đổi mới toàn diện và mạnh mẽ để trở thành một đất nước phát triển và hiện đại, vượt qua bẫy thu nhập trung bình, tránh tụt hậu so với các quốc gia trong khu vực. Điều này đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hơn nữa thể chế, chính sách và điều chỉnh mục tiêu, định hướng phát triển khu công nghiệp và khu kinh tế để thích ứng với bối cảnh mới, góp phần thực hiện chiến lược phát triển đất nước.

Ngày 28/05/2022 Chính phủ đã ban hành Nghị định 35/2022 NĐ-CP “Quy định về Quản lý Khu Kinh tế, Khu Công nghiệp” đề ra “phương hướng xây dựng, phương án phát triển hệ thống khu công nghiệp, khu kinh tế; đầu tư hạ tầng, thành lập, hoạt động, chính sách phát triển và quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp, khu kinh tế”.

Nghi định đã định hướng xây dựng khu kinh tế, khu công nghiệp, khu công nghiệp - đô thị - dịch vụ, khu công nghiệp sinh thái, giảm tiêu hao năng lượng, hạn chế khí phát thải nhà kính, chú trọng trách nhiệm xã hội và được quản trị theo mô hình Chính phủ số. Đây chính là xu hướng mới trong phát triển các khu công nghiệp ở nước ta hiện nay.

2.1. Xây dựng và chuyển đổi theo hướng Mô hình Khu công nghiệp sinh thái và Khu Công nghiệp - Đô thị - Dịch vụ

a. Mô hình Khu Công nghiệp sinh thái

Khu công nghiệp sinh thái là một “cộng đồng” các doanh nghiệp sản xuất, dịch vụ hoạt động với mục tiêu bảo vệ môi trường. Hiểu một cách đơn giản, đây là mô hình khu công nghiệp gồm các doanh nghiệp thành viên hợp tác với nhau để nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội toàn diện bằng việc quản lý tốt các vấn đề liên quan đến tài nguyên, môi trường.

Hiện nay, mô hình phát triển này chính là giải pháp hiệu quả để xây dựng khu công nghiệp xanh, loại bỏ chất thải và giảm thiểu các tác động đến môi trường.

Phát triển khu công nghiệp theo mô hình sinh thái hiện nay không còn là giải pháp được khuyến nghị mà đã trở thành vấn đề bắt buộc nếu doanh nghiệp muốn đạt hiệu quả cao hơn trong việc thu hút đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài.

Tuy nhiên, xây dựng khu công nghiệp sinh thái sẽ tốn kém nhiều chi phí hơn so với các khu công nghiệp truyền thống. Khu công nghiệp sinh thái phải đáp ứng 8 tiêu chí: 1) Kết cấu hạ tầng phải đúng pháp luật và bảo vệ môi trường, lao động, 2) Kết cấu hạ tầng đầy đủ dịch vụ cơ bản, 3) Sử dụng tài nguyên hiệu quả và sản xuất sạch, 4) Có diện tích đất hợp lý để trồng cây xanh, 5) Liên kết cộng sinh công nghiệp, 6) Xây dựng công trình xã hội cho người lao động, 7) Có cơ chế giám sát, quản lý bảo vệ môi trường và 8) Thực hiện công bố báo cáo bảo vệ môi trường.

Tại Việt Nam, mô hình khu công nghiệp sinh thái được UNIDO và Bộ Kế hoạch & Đầu tư triển khai từ năm 2015 đến năm 2020 tại thành phố Hải Phòng, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Cần Thơ, với khu công nghiệp Amata (Đồng Nai), khu công nghiệp Deep C (Hải Phòng), khu công nghiệp Hiệp Phước (TP Hồ Chí Minh), khu công nghiệp Trà Nóc 1&2 (Cần Thơ), khu công nghiệp Hòa Khánh (Đà Nẵng). Định hướng từ nay tới 2023, Bộ Kế hoạch Đầu tư sẽ hoàn thiện quy định về KCN sinh thái trong Nghị định 35; lồng ghép một số nội dung về KCN sinh thái trong kinh tế tuần hoàn và khuyến khích chuyển đổi sang mô hình này; xây dựng các giải pháp cộng sinh công nghiệp, hỗ trợ các giải pháp tài chính thực hiện biện pháp chuyển đổi…

b. Mô hình Khu Công nghiệp - Đô thị - Dịch vụ

Khu công nghiệp - đô thị - dịch vụ là mô hình kết hợp giữa phát triển công nghiệp với đô thị hóa, đảm bảo sự phát triển bền vững của khu công nghiệp; phát triển song song giữa khu sản xuất công nghiệp với Trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D), Trung tâm ươm tạo doanh nghiệp, giáo dục, y tế, vui chơi giải trí,… để tạo nên môi trường sống và làm việc tốt cho người lao động, chuyên gia công nghệ, chuyên gia kinh tế.

Khu Dịch vụ trong mô hình khu công nghiệp - đô thị - dịch vụ có thể bao gồm các phân khu chức năng như nhà ở, bệnh viện, trường học, Trung tâm nghiên cứu & phát triển, trung tâm ươm tạo doanh nghiệp và một số hạng mục công trình kinh tế - xã hội khác cần thiết, được đầu tư xây dựng để đảm bảo sự phát triển hiệu quả, bền vững về kinh tế, xã hội, môi trường của khu công nghiệp. Quy mô diện tích khu đô thị - dịch vụ tối đa không vượt quá 1/3 diện tích khu công nghiệp.

Mô hình khu công nghiệp - đô thị - dịch vụ nếu được triển khai đồng bộ có thể đã là lời giải cho bài toán nhà ở xã hội, tiện nghi sinh hoạt và các tiện ích xã hội khác tại các khu công nghiệp.

Từ những mô hình khu công nghiệp sinh thái, khu công nghiệp - đô thị - dịch vụ đã thành công tại nhiều địa phương, cần tổng kết thành hình mẫu của cả nước để từng tỉnh, thành phố áp dụng sáng tạo phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội của địa phương.

Bộ Kế hoạch & Đầu tư cần có văn bản hướng dẫn chuyển đổi mô hình tăng trưởng:

1) Chuyển đổi mô hình khu công nghiệp truyền thống sang khu công nghiệp sinh thái, định ra tiến độ thực hiện từ nay đến năm 2025 với sự hổ trợ của Chính phủ, chính quyền tỉnh, thành phố, khuyến khích các doanh nghiệp tham gia, tự đề ra kế hoạch, đăng ký với Ban Quản lý khu công nghiệp, đối chiếu với 8 tiêu chí để từng năm phấn đấu thực hiện.

2) Những tỉnh, thành phố đang lập quy hoạch xây dựng thêm khu công nghiệp mới nhất thiết phải theo mô hình khu công nghiệp sinh thái; phải đạt được tất cả tiêu chí khi trình dự án lên Chính phủ.

3) Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các tỉnh, thành phố từng bước thực hiện chuyển từ khu công nghiệp sang khu công nghiệp - đô thị - dịch vụ ở những vùng có điều kiện thực hiện, hoặc liên kết vài ba khu công nghiệp để đủ điều kiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng mới.

2.2. Vận hành và quản lý các Khu công nghiệp theo mô hình Doanh nghiệp số và Chính phủ số

a. Doanh nghiệp số

Chuyển đổi số không còn là tầm nhìn, mục tiêu dài hạn, mà đã trở thành một thực tế bắt buộc các doanh nghiệp phải tham gia để có thể phát triển và tránh tụt hậu.

Theo kết quả của khảo sát “Thực trạng Chuyển đổi số doanh nghiệp” do VCCI thực hiện năm 2020 trên 400 doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như doanh nghiệp lớn cho thấy, doanh nghiệp Việt Nam cũng đã bắt đầu nhận thức và ứng dụng các công nghệ số vào các khâu như quản trị doanh nghiệp, mua hàng, logistics, sản xuất, marketing, bán hàng và thanh toán. Khi dịch Covid-19 lan rộng, phải thực hiện các biện pháp giãn cách xã hội đã buộc các doanh nghiệp ứng dụng nhiều hơn các công nghệ số, nhất là trong quản trị doanh nghiệp, thanh toán điện tử, marketing trực tuyến. Tại các khu kinh tế, khu công nghiệp doanh nghiệp FDI thực hiện chuyển đổi số nhanh và có hiệu quả để thích ứng với chuỗi cung ứng toàn cầu.

b. Chính phủ số

Chính phủ số là Chính phủ có toàn bộ hoạt động an toàn trên môi trường số, có mô hình hoạt động được thiết kế lại và vận hành dựa trên dữ liệu và công nghệ số, có khả năng cung cấp dịch vụ chất lượng hơn, đưa ra quyết định kịp thời hơn, ban hành chính sách tốt hơn, sử dụng nguồn lực tối ưu hơn, kiến tạo phát triển, dẫn dắt chuyển đổi số quốc gia.

Chính phủ số là Chính phủ điện tử thêm “bốn Có”: có toàn bộ hoạt động an toàn trên môi trường số, có khả năng cung cấp dịch vụ mới nhanh chóng, có khả năng sử dụng nguồn lực tối ưu và có khả năng kiến tạo phát triển, giải quyết hiệu quả những vấn đề lớn trong phát triển và quản lý kinh tế - xã hội.

Ở cấp quốc gia, quốc gia thông minh gồm ba thành phần là Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Ở cấp địa phương, đô thị thông minh gồm ba thành phần là chính quyền số, kinh tế số và xã hội số trong phạm vi địa lý của đô thị đó.

Quá trình phát triển Chính phủ điện tử ở nước ta đã diễn ra từ nhiều năm nay, sẽ cơ bản hoàn thành vào năm 2021-2022 với mục tiêu 100% dịch vụ công của các bộ, ngành, địa phương đủ điều kiện được đưa lên mức độ 4, hướng tới chính phủ số giai đoạn 2021-2025 định hướng đến năm 2030, Việt Nam đã bắt đầu khởi động quá trình phát triển chính phủ số, thực hiện song song với quá trình phát triển chính phủ điện tử.

Quản lý nhà nước khu kinh tế, khu công nghiệp trong thời đại kinh tế số, doanh nghiệp số đòi hỏi phải xây dựng Chính phủ số ở cấp quốc gia và chính quyền số ở cấp địa phương,

Chính quyền tỉnh, thành phố, Ban Quản lý khu công nghiệp cần có nhận thức đúng về Chính phủ số. Khi thực hiện Chính phủ điện tử thì chỉ nghĩ đến việc tin học hóa, cung cấp dịch vụ hành chính công trực tuyến, đầu tư hệ thống thông tin, số hóa từng quy trình, mười năm mới đạt được 10% dịch vụ công trực tuyến lên mức độ 4. Chuyển sang Chính phủ số phải nghĩ đến đưa mọi hoạt động của Chính phủ như thanh tra lên môi trường số. sử dụng nền tảng, số hóa toàn bộ, trong ba tháng đưa 100% dịch vụ công trực tuyến lên mức độ 4 với chi phí thấp hơn. Nếu nhận thức không thay đổi thì khó tiếp cận có hiệu quả Chính phủ số tạo điều kiện để quản lý nhà nước khu kinh tế, khu công nghiệp thay đổi nhanh hơn và có kết quả tốt hơn.

Nghị định 35 của Chính phủ đã ghi nhận tầm quan trọng đầu tư xây dựng Hệ thống thông tin quốc gia về khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung, thống nhất theo quy định của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đảm bảo kết nối giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan trên môi trường mạng để phục vụ công tác quản lý nhà nước và cung cấp thông tin về khu kinh tế, khu công nghiệp,.

Chính quyền các tỉnh, thành phố, Ban Quản lý khu kinh tế, khu công nghiệp cần nhận thức tầm quan trọng của Hệ thống thông tin quốc gia, thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ của từng địa phương, từng cấp, tạo điều kiện để kết nối cả hệ thống, từ trung ương đến địa phương, đến từng khu kinh tế, khu công nghiệp, từng doanh nghiệp nhằm góp phần thực hiện mục tiêu của Chính phủ số đến năm 2025 và 2030.

Kết luận

Nghi định 35 của Chính phủ là văn bản pháp lý toàn diện, đổi mới theo định hướng tăng trưởng xanh và kinh tế số. Vấn đề là thực thi nghiêm chỉnh để chuyển đổi nhanh chóng mô hình tăng trưởng khu kinh tế, khu công nghiệp theo hướng xanh hóa sản xuất, quản lý nhà nước khu kinh tế, khu công nghiệp theo hướng Chính phủ số.

Yếu tố thời gian trong giai đoạn chuyển đổi số là nhân tố cực kỳ quan trọng nếu không sẽ bỏ lỡ cơ hội để khu kinh tế, khu công nghiệp đóng góp quan trọng vào Chiến lược phát triển 2021- 2030 nhằm mục tiêu đến năm 2030 hoàn thành cơ bản công nghiệp hóa với mô hình tăng trưởng hiệu quả cao hơn, chất lượng hơn và bền vững hơn, có GDP/người khoảng 12 000 USD/năm, người dân có đời sống vật chất sung túc, đời sống tinh thần và văn hóa tốt đẹp, môi trường sống lành mạnh.

Trương Thị Quỳnh Vân

Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến thương mại - VIOIT

BÀI VIẾT KHÁC