NGHIÊN CỨU

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Nghiên cứu

Văn minh sinh thái: Lý luận và thực tiễn (Phần II)

14/09/2022

Văn minh sinh thái: Lý luận và thực tiễn (Phần I)

Định hướng, giải pháp cho Việt Nam

“Việt Nam có những thành tựu đáng để tự hào với thế giới và đã có một chặng đường phát triển.Nhưng vẫn chưa thành công ở khía cạnh lồng ghép được yếu tố môi trường vào các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội” - ông Douglas Graham - chuyên gia cao cấp về môi trường của Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá, đây là lúc Việt Nam rút kinh nghiệm để xác định lại tính thực tiễn của các mục tiêu môi trường, chuẩn bị năng lực thực hiện. Liên quan đến kế hoạch sắp tới: "Phải làm rõ tầm nhìn trong từng giai đoạn: 10 năm, 20 năm... Làm rõ hơn về cách tiếp cận trong khu vực, quốc gia không chỉ làm giảm thiểu mà cả vấn đề thích ứng, ngăn chặn... Cần có sự tham gia của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân". Còn theo ông Rolf Samuelsson - nguyên Đại sứ Thụy Điển thì: "Chúng ta cần quán triệt và kết hợp với nhau hơn nữa để giải quyết vấn đề này. Chính phủ phải là người đứng đầu trong việc phối hợp vấn đề này và đặt ra mục tiêu hành động cụ thể ".

I. Những định hướng lớn cần thực thi

1. Xây dựng và hoàn thiện khung thể chế và chính sách thúc đẩy, thực hiện SXTDBV

Rà soát, lồng ghép các hoạt động sản xuất và tiêu dùng bền vững vào trong các quy hoạch, kế hoạch phát triển quốc gia, ngành và địa phương; Lồng ghép việc thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững vào các Chương trình phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường và giảm nghèo;

Nghiên cứu, hoàn thiện bộ máy nhằm tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững;

Xây dựng hệ thống tiêu chí theo dõi, đánh giá, báo cáo thực hiện Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững;

Rà soát, xây dựng các mức thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu các sản phẩm sinh thái phù hợp với lộ trình hội nhập quốc tế và khu vực nhằm đẩy mạnh sản xuất, nhập khẩu, xuất khẩu các sản phẩm thân thiện với môi trường;

Đánh giá tình hình đầu tư, kinh doanh các sản phẩm sinh thái thời gian qua và định hướng đến năm 2020, đề xuất các giải pháp thúc đẩy đầu tư, kinh doanh sản phẩm thân thiện với môi trường;

Xây dựng chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư vào sản xuất, kinh doanh các sản phẩm thân thiện với môi trường.

2. Thúc đẩy sản xuất và tái cơ cấu kinh tế theo hướng bền vững

Khai thác, sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; đẩy mạnh việc thay thế sử dụng các nguồn tài nguyên có thể cạn kiệt bằng các nguồn tài nguyên, năng lượng mới, có thể tái tạo;

Thúc đẩy việc đổi mới công nghệ, từng bước áp dụng công nghệ sạch, thân thiện với môi trường và loại bỏ theo lộ trình các công nghệ lạc hậu, tiêu hao nguyên nhiên liệu gây ô nhiễm môi trường; Khuyến khích việc nhập khẩu các công nghệ sạch, công nghệ và sản phẩm thân thiện với môi trường;

Tiếp tục triển khai các giải pháp về sản xuất sạch hơn, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong các khâu của quá trình sản xuất;

Thực hiện thiết kế và cải tiến sản phẩm theo hướng bền vững; Thúc đẩy tiếp cận sinh thái và cộng sinh công nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, phòng ngừa và giảm thiểu tại nguồn. Xây dựng và triển khai thực hiện Chương trình đổi mới sinh thái;

Thúc đẩy phát triển sản xuất các sản phẩm, dịch vụ thân thiện với môi trường; Lựa chọn và phát triển một số sản phẩm và dịch vụ thân thiện với môi trường, đáp ứng nhu cầu của thị trường;

Đẩy mạnh việc phát triển ngành công nghiệp môi trường.

3. Phát triển chuỗi cung ứng bền vững

Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các đối tượng có liên quan tham gia vào chuỗi cung ứng, phân phối các sản phẩm hàng hóa nói chung và các sản phẩm, dịch vụ thân thiện với môi trường;

Đánh giá hiện trạng phát triển các kênh phân phối hàng hóa theo mô hình bền vững, thân thiện với môi trường ở Việt Nam; Đề xuất và hỗ trợ triển khai một số mô hình thí điểm phân phối các sản phẩm thân thiện môi trường; Tổ chức phổ biến, nhân rộng các mô hình điển hình;

Áp dụng các giải pháp kỹ thuật nhằm xanh hóa hệ thống phân phối sản phẩm, hàng hóa; Thực hiện sản xuất sạch hơn đối với hệ thống các chợ, siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi; Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn và thực hiện cấp chứng nhận cho các mô hình phân phối xanh,thân thiện với môi trường;

Xây dựng chuỗi cung ứng bền vững: kết nối giữa nhà cung cấp nguyên liệu - nhà sản xuất - nhà phân phối – người tiêu dùng và tạo lập kênh phân phối, phát triển thị trường đối với các sản phẩm thân thiện với môi trường;

Rà soát, đánh giá thực trạng hệ thống cơ chế chính sách hiện hành của Việt Nam trong lĩnh vực phân phối và khuyến khích tiêu dùng các sản phẩm thân thiện với môi trường.

4. Thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam theo hướng bền vững

Đánh giá tiềm năng thị trường và khả năng cung ứng các sản phẩm thân thiện môi; Nghiên cứu các cơ hội thương mại, xuất khẩu, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu đối với các sản phẩm xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam khi được dán nhãn xanh, nhãn tiết kiệm năng lượng và nhãn sinh thái khác;

Tăng cường năng lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước. Nâng cao khả năng tiếp cận thị trường và khả năng đáp ứng các quy định về môi trường của các sản phẩm xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam;

Xây dựng và thực hiện Chương trình nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm theo hướng bền vững.

5. Thay đổi thói quen tiêu dùng, thực hiện lối sống bền vững

Tuyên truyền, vận động xây dựng lối sống thân thiện với môi trường, tiêu dùng bền vững, hình thành ý thức bảo vệ môi trường, tiến tới xây dựng xã hội ít chất thải, các-bon thấp, hài hòa, thân thiện với môi trường;

Tổ chức các kênh thông tin quảng bá sản phẩm, dịch vụ thân thiện với môi trường tới người tiêu dùng; Xây dựng chương trình quảng bá sản phẩm thân thiện với môi trường;

Tiếp tục thực hiện hoạt động dán nhãn xanh, nhãn tiết kiệm năng lượng; Đẩy mạnh hoạt động thử nghiệm, đánh giá chứng nhận và dán nhãn sinh thái đối với các sản phẩm, dịch vụ;

Đẩy mạnh hoạt động mua sắm xanh trong khối các doanh nghiệp và mua sắm công xanh trong khối các cơ quan nhà nước;

Phát triển và phổ biến các mô hình thực hành lối sống bền vững.

6. Đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho SXTDBV

Lồng ghép việc đào tạo nhân lực cho sản xuất và tiêu dùng bền vững vào các Chương trình/ Đề án/ Quy hoạch nhân lực của các Bộ, ngành;

Lồng ghép nội dung giáo dục về sản xuất và tiêu dùng bền vững vào trong chương trình giáo dục quốc gia;

Tăng cường đào tạo và phổ biến các kiến thức, chính sách, pháp luật về về sản xuất và tiêu dùng bền vững cho cán bộ, doanh nghiệp và người lao động để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho thực hiện các hoạt động thực hành về SXTDBB.

7. Tăng cường sự tham gia của các hiệp hội ngành hàng và cộng đồng trong phát triển sản xuất và tiêu dùng bền vững

Nâng cao vai trò của các Hiệp hội ngành hàng trong việc hướng dẫn thực hiện và phổ biến các mô hình và thực hành về sản xuất, tiêu dùng bền vững;

Đẩy mạnh hoạt động tuần hoàn, tái chế, tái sử dụng chất thải: Xây dựng nền kinh tế 3R.

II. Từ thực tiễn và kinh nghiệm của các nước, có thể rút ra một số giải pháp sau:

1.Trong giai đoạn hiện nay, xuất phát từ những cam kết quốc tế, pháp luật về bảo vệ môi trường ở nước ta cần được nghiên cứu, hoàn thiện ở một số phương diện sau đây:

 i) Xây dựng cơ chế mang tính nguyên tắc là : Buộc đánh giá tác động môi trường đối với mọi đề xuất cho bất kỳ một hoạt động nào có khả năng ảnh hưởng lớn tới môi trường, trước khi chúng được thông qua. Quản lý chặt chẽ công nghệ, hàng hóa xuất, nhập khẩu có liên quan đến phát thải khí nhà kính

ii) Nghiên cứu, ban hành và thực thi từng bước pháp luật điều chỉnh về vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) của trái đất và bảo vệ tầng ôzôn phù hợp với các qui định trong Công ước khung của Liên hợp quốc về thay đổi khí hậu và  trong Công ước Viên về bảo vệ tầng ôzôn; Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ôzôn, được điều chỉnh và sửa đổi tại cuộc họp lần thứ hai của các bên, tại London (27-29 / 6/ 1990) và được bổ sung tại cuộc họp lần thứ ba của các bên  tại Nairobi (19-21 /6/1991);cuộc họp lần thứ tư của các bên, tại Copenhagen (23-25/11/1992), theo đó mỗi quốc gia đều có trách nhiệm ban hành các chính sách, các qui định pháp luật tương ứng và thực hiện các biện pháp thích ứng về giảm nhẹ sự thay đổi khí hậu.

iii) Khi điều kiện chưa bảo đảm, Việt Nam không nên vội vàng trong việc áp dụng ồ ạt các cơ chế chính sách ở phạm vi rộng mà cần tập trung nguồn lực để thực hiện tốt một số cơ chế chính sách cơ bản, sau đó mở rộng dần phạm vi áp dụng ra chúng

Việc áp dụng kết hợp nhiều nhóm chính sách là cần thiết để đem lại hiệu quả thực thi.Vì vậy, bên cạnh sức ép bên ngoài, cần phải tạo những sức ép bên trong mạnh mẽ từ cộng đồng xã hội, hiệp hội ngành nghề, tổ chức, đồng thời ban hành các chính sách hỗ trợ nhất định để tạo điều kiện cho doanh nghiệp cũng thu được lợi ích kinh tế từ việc đầu tư cho các dự án bảo vệ môi trường.

Tạo ra áp lực cần thiết buộc các nhà kinh doanh chỉ cung ứng các sản phẩm thân thiện với môi trường cho người tiêu dùng. Điều này sẽ có tác động lan tỏa tới các nhà sản xuất.

2. Phối hợp giữa các cơ quan trong việc ban hành, thực thi, giám sát, kiểm tra và giải quyết các vấn đề thương mại và môi trường.Việc thành lập Uỷ ban môi trường quốc gia nhằm điều phối các hoạt động liên ngành, các hoạt động có liên quan đến môi trường là một kinh nghiệm hay mà chúng ta cần quan tâm xem xét.

3. Cần có cơ chế, chính sách khuyến khích tài chính đủ mạnh. Theo đó:

- Sớm ban hành những văn bản hướng dẫn cụ thể để thực thi Nghị định 130-NĐ/CP của Chính phủ về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư cho các dự án sản xuất sạch.

- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế hoạt động của Quỹ bảo vệ môi trường .Tăng nguồn thu cho Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam từ phí bảo vệ môi trường đã và sẽ áp dụng tại Việt Nam; mở rộng hợp tác quốc tế để huy động nguồn vốn bên ngoài, đặc biệt là nguồn vốn từ các chế định tài chính quốc tế như Quỹ môi trường toàn cầu, quỹ môi trường của một số nước đối tác...

4. Xây dựng và thực hiện chương trình hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư cho hoạt động bảo vệ môi trường như: cho doanh nghiệp vay vốn ưu đãi để thực hiện các dự án sản xuất sạch hơn; khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ cùng góp vốn đầu tư hệ thống xử lý ô nhiễm trong làng nghề, cụm công nghiệp theo phương thức Nhà nước và doanh nghiệp cùng làm. Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ về thông tin, khả năng tiếp cận dịch vụ môi trường và nguồn nguyên liệu sạch. Trợ giúp các doanh nghiệp trong việc áp dụng/chứng chỉ phù hợp.  Nhanh chóng  hình thành nguồn vốn hoặc quỹ môi trường của ngành để trợ giúp cho các doanh nghiệp nâng cao năng lực thực thi quy định và pháp luật bảo vệ môi trường.

5.Về phía các doanh nghiệp

- Xây dựng chiến lược kinh doanh có tính đến các tác động của các quy định tiêu chuẩn và quy định môi trường của sản phẩm

- Đầu tư đổi mới công nghệ đồng bộ để sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên, giảm thiểu ô nhiễm, nâng cao chất lượng sản phẩm

- Nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp, đặc biệt là năng lực phân tích kinh tế và môi trường, biết gắn kết lợi ích kinh tế và lợi ích môi trường, khả năng phân tích chi phí – lợi ích khi phải tiến hành đồng thời cả nhiệm vụ kinh doanh và thực thi quy định môi trường, để từ đó họ có những cân nhắc hợp lý theo nguyên tắc “WIN – WIN”, đôi bên đều có lợi.

- Trong doanh nghiệp nên hình thành bộ phận nghiên cứu và thực thi các quy định môi trường. Hàng tháng, hàng quý và kết thúc năm phải có báo cáo của doanh nghiệp về thực thi quy định và luật pháp môi trường, các báo cáo này cần phải được lưu giữ để theo dõi.

6. Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á  phải giải quyết cùng lúc hai mối đe doạ đó là khủng hoảng dịch bệnh Covid 19 và BĐKH. Việc đưa ra các chương trình “Kích cầu Xanh” là một phần của gói kích thích mở rộng để đồng thời đẩy mạnh kinh tế, tạo việc làm, giảm đói nghèo, bảo vệ các cộng đồng có nguy cơ bị tác động bởi khí hậu.

7. Hoàn thiện chính sách xuất nhập khẩu

- Xây dựng chế tài kiểm soát xuất khẩu hàng lâm sản (gỗ và tài nguyên rừng), khoáng sản.... Khuyến khích xuất khẩu những hàng hoá sử dụng các loại lâm sản thông dụng, có khả năng tái tạo nhanh.

- Kết hợp thuế bảo vệ môi trường vào hệ thống thuế nhập khẩu. Việc áp dụng thuế bảo vệ môi trường đối với hàng nhập khẩu sẽ đạt được nhiều mục tiêu: bảo vệ môi trường, bảo hộ sản xuất, tăng thu ngân sách nhà nước… Điều này không trái với nguyên tắc của WTO, mà về một ý nghĩa nào đó còn được dư luận xã hội ủng hộ.

- Khuyến khích nhập khẩu máy móc, thiết bị có công nghệ tiên tiến (kết hợp xem xét với yêu cầu của công nghệ xanh ). Hạn chế nhập khẩu thiết bị, công nghệ trung gian. Đây là một chính sách quan trọng, nhằm ngăn chặn dòng thương mại và thiết bị - công nghệ cũ và lạc hậu đổ vào nước ta, và theo đó là sự tiêu tốn tài nguyên, phát thải các chất độc làm tổn hại đến môi trường sinh thái.

- Thử nghiệm đấu giá các giấy phép nhậu khẩu đối với những hàng hoá gây ảnh hưởng lớn đến môi trường sinh thái. Đây là chính sách cần thiết có tác động điều chỉnh trực tiếp đối với các sản phẩm gây hại đến môi trường, phát thải các chất gây hiệu ứng nhà kính, làm thủng tầng ô - zôn (như ô tô bốn chỗ ngồi, các hoá chất có gốc CFC,... ), thông qua đó số tiền mà Nhà nước  thu được để lập quỹ bảo vệ môi trường.

8. Xây dựng một chính sách tiêu dùng hợp lý, khoa học. Cần phải xem hướng dẫn tiêu dùng như là một bộ phận trong giáo dục lối sống của cộng đồng để đạt đến sự phát triển bền vững. Một chính sách tiêu dùng hợp lý, được chấp nhận sẽ góp phần sử dụng có khoa học các tài nguyên thiên nhiên. Nâng cao nhận thức về quyền lợi và trách nhiệm của người tiêu dùng đối với mọi hàng hoá lưu thông trên thị trường tạo ra sức ép buộc các nhà sản xuất phải tuân thủ đúng tiêu chuẩn về chất lượng đối với sản phẩm của mình. Tiêu dùng có văn hoá và mang tính nhân bản là tiêu dùng không chỉ cho hôm nay còn nghĩ đến tương lai của thế hệ mai sau.

9. Kiện toàn các Sở Tài nguyên và Môi trường, trong đó có đơn vị quản lý môi trường đủ mạnh ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, hình thành bộ phận quản lý môi trường kết hợp với quản lý tài nguyên ở cấp huyện, có cán bộ chuyên trách về môi trường và tài nguyên ở cấp xã.

Như vậy, có thể nói rằng hành trình của Việt Nam trên con đường tuân thủ Công ước của Liên Hợp Quốc về thay đổi khí hậu, nghị định thư Kyoto nói chung và Cơ chế phát triển sạch (CDM) nói riêng mới chỉ bắt đầu. Nhưng với những thành công bước đầu, với những cơ chế, chính sách đã và đang xây dựng và những nguồn lực sẵn có, sẽ giúp Việt Nam thành công hơn nữa trong các dự án CDM, vững bước hơn trên con đường hướng tới một quốc gia tăng trưởng về kinh tế, phát triển về xã hội và bền vững về môi trường.Vì vậy trong thời gian tới cần đa dạng hóa các kênh tài chính để việc nghiên cứu và hành động cũng như thực hiện có đủ nguồn lực cần thiết./.

Vũ Huy Hùng

Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại - VIOIT

 

BÀI VIẾT KHÁC