NGHIÊN CỨU

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Nghiên cứu

Thương mại và vấn đề thúc đẩy sự hình thành và phát triển các chuỗi giá trị trong nông nghiệp

26/12/2022

Bối cảnh và những vấn đề đặt ra

Ngành nông nghiệp đã đạt được những thành quả tích cực sau hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam từ chỗ thiếu đói trở thành một nước xuất khẩu nông sản, nông nghiệp trở thành trụ đỡ của nền kinh tế. Bên cạnh những kết quả đạt được, nông nghiệp, nông thôn nước ta vẫn còn bộc lộ những hạn chế, bất cập. Đây vẫn là khu vực chậm phát triển trong mối quan hệ so sánh với các khu vực khác. Đặc biệt, tốc độ tăng trưởng nông nghiệp đã “tới hạn” và có xu hướng giảm đều trong giai đoạn gần đây. Sự bùng nổ của ngành nông nghiệp thời gian qua chủ yếu mang tính quảng canh, lấy sản lượng, năng suất là chính. Hơn nữa, nền nông nghiệp nước ta lại chưa gắn với công nghiệp thành một hệ thống để bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. Số lượng các doanh nghiệp lớn đóng vai trò dẫn dắt trong quá trình hội nhập còn khá ít.

Mặc dù chính sách dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất đã được thực hiện khá lâu nhưng tới nay diện tích đất nông nghiệp vẫn rất manh mún, nhất là tại phía Bắc. Khoảng 90% đất nông nghiệp thuộc các hộ nông nghiệp và các trang trại, 6% thuộc các doanh nghiệp, số còn lại thuộc các cơ sở khác. Đa phần các hộ nông nghiệp có quy mô rất nhỏ. Diện tích canh tác bình quân mỗi lao động nông nghiệp của Việt Nam chỉ đạt 0,34 ha,bằng hơn một nửa (0,6-0,8 lần) so với Campuchia, Myanmar hay Philippines. Điều này đã và đang hạn chế ứng dụng khoa học công nghệ (KHCN) vào sản xuất nông nghiệp cũng như khai thác lợi thế theo quy mô.

Cùng với khó khăn của tiêu thụ nông sản, kinh tế nông nghiệp đã chững lại, giảm sút, tạo ra tâm lý nông dân không muốn làm nông nghiệp. Khoảng cách thu nhập với các khu vực khác trước đổi mới là 3,5 lần, đầu đổi mới là 5,6 lần thì nay là 10,2 lần.

Trong những năm qua, kinh tế hộ gia đình đã phát huy hiệu quả nhưng cũng đã “tới hạn” của việc phát triển theo chiều rộng, chủ yếu tập trung vào năng suất và số lượng sản phẩm, chỉ sản xuất cái gì mình có mà không theo tín hiệu của thị trường. Bên cạnh đó, tác động tích cực của nhiều chính sách “cởi trói” trong nông nghiệp và nông thôn dường như đã tới hạn, có quá nhiều chính sách để thu hút nguồn lực vào nông nghiệp nhưng lại không phát huy được hiệu quả.

Tái cơ cấu nông nghiệp chưa chạm đến doanh nhân, doanh nghiệp. Nhiều chính sách khuyến khích, nhưng tới nay tỉ lệ doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn còn rất thấp. Đầu tư tư nhân vào nông nghiệp chưa tương xứng với tiềm năng, cũng như nhu cầu phát triển của ngành. 

 “Chuỗi giá trị” hay “liên kết bốn nhà” chưa chạm đến phần lõi thực tế. Tư duy của các chương trình phát triển nông nghiệp hay nông thôn mới đang tiếp cận ở một góc tương đối hẹp, và theo đó, chính sách mới chỉ giới hạn ở các khoản hỗ trợ cho sản xuất. Với hiểu biết về thị trường, kiến thức và kỹ năng về quản lý, chỉ có doanh nghiệp mới có đủ năng lực để “kéo” chuỗi giá trị nông nghiệp đi lên. Tiếc thay, “nhà doanh nghiệp” chưa được đặt vào vị trí trung tâm trong các thiết kế chính sách.

Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) cảnh báo, xu hướng chung gần đây cho thấy GDP nông nghiệp đang giảm, tốc độ tăng năng suất đang chậm lại, trong khi khoảng cách về thu nhập giữa lao động nông nghiệp và phi nông nghiệp đang nới rộng. Một số vấn đề môi trường hiện đang ảnh hưởng xấu đến cả năng suất lao động và vị thế quốc tế của nông sản Việt Nam.

Trong lúc bối cảnh nông nghiệp hội nhập và cạnh tranh đã thay đổi nhanh chóng, tiêu thụ được sản phẩm với giá bao nhiêu trở thành bài toán cốt yếu.

Ngành nông nghiệp Việt Nam đang tồn tại nghịch lý: Một đất nước đông dân, diện tích đất canh tác tính trên đầu người rất thấp, nhưng người nông dân lại luôn nơm nớp nỗi lo về đầu ra cho nông sản, trong khi đó hàng năm vẫn phải bỏ ra hàng tỉ đô la Mỹ để nhập các sản phẩm nông nghiệp.

Việt Nam có lợi thế và tiềm năng trong sản xuất nông nghiệp,thuận lợi để sản xuất ra các sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới chất lượng cao, đa dạng, đặc trưng theo từng vùng, miền. Tuy nhiên, việc đưa nông sản Việt Nam ra trường quốc tế đang đối diện nhiều thách thức. Thông tin từ Văn phòng SPS Việt Nam, 6 tháng đầu năm 2022, trên toàn thế giới có 2.251 cảnh báo từ hệ thống cảnh báo nhanh đối với mặt hàng nông sản thực phẩm và thức ăn chăn nuôi (RASFF - Rapid Alert System for Food and Feed) của EU, trong đó có 40 cảnh báo đối với hàng nông sản thực phẩm của Việt Nam (chiếm 1,77% cảnh báo). Việc cấp mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói mới triển khai chủ yếu đối với cây ăn quả, chưa triển khai được nhiều với các sản phẩm có khối lượng xuất khẩu lớn như lúa, chè, hồ tiêu, cà phê…

Đặc biệt là nguy cơ mất nhãn hiệu, thương hiệu do chưa được đăng ký bảo hộ trước đó. Trên thực tế, số lượng sản phẩm nông sản của Việt Nam đã xây dựng được thương hiệu và được đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý (CDĐL) cả trong nước và thị trường quốc tế còn hạn chế. 

Hệ thống cơ sở hạ tầng, kho bãi, kho lạnh bảo quản nông sản tại vùng nguyên liệu, hệ thống kho ngoại quan tại khu vực cửa khẩu chưa đồng bộ. Điều này dẫn đến còn có tình trạng ùn ứ phương tiện trong việc xuất, nhập khẩu nông sản qua các cửa khẩu phía Bắc khi Trung Quốc áp dụng nghiêm ngặt chính sách phòng chống dịch COVID-19.

Việt Nam có khoảng 174.000 héc ta đất sản xuất nông nghiệp hữu cơ, một con số rất nhỏ so với thế giới.Cả nước có 555 cơ sở sản xuất sản phẩm hữu cơ, trong đó, có 55 - 60 doanh nghiệp, tập đoàn lớn xuất khẩu với kim ngạch sản phẩm hữu cơ chỉ khoảng 335 triệu đô la Mỹ, trong đó, tập trung vào một số sản phẩm như gạo, gia vị, các loại hạt. Quy mô thị trường sản phẩm hữu cơ Việt Nam chỉ khoảng 50 - 60 triệu đô la Mỹ, nhưng lòng tin của người tiêu dùng với sản phẩm hữu cơ, kể cả sản phẩm nông nghiệp có chứng nhận VietGAP, GlobalGAP (thực hành sản xuất nông nghiệp tốt theo tiêu chuẩn Việt Nam và thế giới) vẫn là một câu chuyện nan giải. Bên cạnh giá bán cao, người tiêu dùng chưa có lòng tin đối với sản phẩm được chứng nhận hữu cơ, kể cả sản phẩm đạt chứng nhận VietGAP, GlobalGAP… chính là “rào cản” gây khó cho sự phát triển của phân khúc sản phẩm này. Nhu cầu của thị trường thế giới với sản phẩm hữu cơ tập trung vào các loại sản phẩm như: rau, trái cây, gia vị, các loại hạt. Đây chính là những sản phẩm Việt Nam có lợi thế, cơ hội cho Việt Nam chinh phục thị trường thế giới vẫn còn rất lớn.

Thiếu cán bộ hiểu biết về công nghệ thông tin, quy trình bán hàng, marketing, xây dựng hình ảnh sản phẩm, cách thức chăm sóc khách hàng… là những trở ngại trong phát triển thương mại điện tử ở các vùng sâu, vùng xa hiện nay... nên chưa tạo nên những "bước nhảy" đầu ra cho sản phẩm vùng đồng bào dân tộc thiểu số qua thương mại điện tử.

Việt Nam sẽ tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu như thế nào và đến khi nào thì chúng ta khởi tạo một chuỗi giá trị mới để tham dự cùng các nước. Câu trả lời tưởng chừng đơn giản trong một bài toán không đơn giản: Ta sẽ giải quyết vấn đề gì của thế giới. Vấn đề cà phê, vấn đề thịt, rau quả  hay vấn đề lúa gạo... Một lời giải mang tầm chiến lược quốc gia vẫn đang được đặt ra.

Nông sản và thực phẩm chế biến dưới dạng thô vẫn sẽ là nhóm hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong những năm tới. Tuy nhiên theo đánh giá của các chuyên gia, có tới 85 - 90 % lượng hàng nông sản của ta vào thị trường thế giới phải thông qua trung gian bằng các thương hiệu nước ngoài. Vì vậy giá thấp, bị o ép... sẽ vẫn là những câu chuyện thường ngày đối với hàng Việt Nam khi “vượt biên” xuất ngoại. Đó là chưa kể tới rào cản chống bán phá giá, nhãn sinh thái, rào cản kỹ thuật… được xem là những “binh pháp thương mại” thường được các nước nhập khẩu sử dụng trong cuộc chơi mà hàng Việt Nam không dễ gì vượt qua trong một sớm, một chiều.

Sau hơn 35 năm thực hiện đổi mới trong nông nghiệp, tuy còn nghèo nhưng người dân nông thôn đã có mức tích luỹ đáng kể, nhưng trên thực tế đại bộ phận khoản để dành này đã bị hút vào việc xây dựng, cải tạo  nhà ở, mua sắm đồ dùng,  phần dành cho tái sản xuất mở rộng là còn thấp. Như vậy ngay trong nông thôn, công nghiệp, khu vực đổi mới sớm nhất, cởi mở nhất thì hệ thống thể chế và chính sách cũng chưa đủ sức cuốn hút các chủ thể kinh doanh thực sự “tiết kiệm” để ưu tiên đầu tư cho phát triển. Từ nay đến năm 2025, nếu xác định chiến lược chung của nền kinh tế nước ta là “hướng về xuất khẩu” thì kinh tế nông thôn, nông nghiệp sẽ xuất cái gì ra thị trường thế giới và khu vực.

Việt Nam chủ trương xuất lúa gạo là chủ yếu hay chuyển hướng sang sản xuất thịt là chủ yếu. Nếu xuất lúa gạo thì chiến lược cạnh tranh với Thái lan, Mianma, Ấn Độ, Căm-Pu-Chia… sẽ như thế nào. Nếu xuất khẩu thịt là chủ yếu thì đương nhiên là thị trường nhập khẩu là các nước giàu, có khả năng thanh toán tốt hơn, nhưng lại đòi hỏi công nghệ chăn nuôi và chế biến khắt khe hơn, liệu có quá khả năng của Việt nam hay không. Đối với các loại nông sản thực phẩm khác, chúng ta đi theo hướng “đồng dạng” với  các nước  khác hay Việt Nam có những con đường riêng để đi vào thị trường nông sản thực phẩm thế giới mà ta có lợi thế.  Liệu có một số nông sản thực phẩm cao cấp, đặc trưng của vùng nhiệt đới dưới dạng “sạch” và thân thiện với môi trường có thể là hướng chiến lược để lựa chọn được không. Thị trường này tuy mới nhưng lại có xu hướng mở rộng nhanh. Những định hướng, lựa chọn nêu trên có ảnh hưởng sâu sắc tới toàn bộ hệ thống nông nghiệp, chi phối mạnh mẽ sự lựa chọn chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn trong những thập kỷ tới cũng như chiến lược và kế hoạch kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.

Trong những khả năng phát triển từ nay đến năm 2025, xu hướng doãng rộng khoảng cách thu nhập giữa thành thị và nông thôn vẫn còn là xu hướng chiếm ưu thế. Đây là một trong những thách thức to lớn đối với chiến lược phát triển nền kinh tế nói chung cũng như nông thôn nói riêng. Trong nông nghiệp thì vấn đề không chỉ có cái hố ngăn cách giữa thành thị và nông thôn mà còn có những cái “hố” lớn hơn giữa các vùng lãnh thổ. Ông Ousmane Dione, Giám đốc Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam đã nói: “Đã đến lúc không thể làm theo cách cũ được nữa, tốc độ tăng trưởng đã giảm sút, nông nghiệp dễ bị tổn thương trước những hiểm họa thời tiết và tác động của môi trường. Việt Nam cần thay đổi để vượt qua những thách thức này, để đảm bảo tăng trưởng nông nghiệp trong tương lai và đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của người dân tốt hơn”. Những khó khăn nội tại cộng với sức ép của hội nhập sâu rộng trong thời gian sắp tới đang đặt nền nông nghiệp Việt Nam vào thế chân tường, tuy nhiên đây cũng là cơ hội để nông nghiệp Việt Nam bứt phá.

Tuy chỉ chiếm 20% GDP của Việt Nam, nhưng đây lại là nguồn sống chính của hơn 68% dân số đang sống ở khu vực nông thôn. Nếu ngành nông nghiệp không thể cạnh tranh thì hậu quả về kinh tế và xã hội thật khó lường. Con số 18,04% trong số gần 14.000 người được khảo sát đã chọn đói nghèo là vấn đề hệ trọng nhất mà Nhà nước cần tập trung giải quyết cho thấy khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng một cách đáng quan ngại. Áp lực hội nhập bắt buộc chúng ta phải có một nền nông nghiệp hàng hóa, cạnh tranh quốc tế. Biến đổi khí hậu cũng buộc Việt Nam thay đổi thể thức để phát triển bền vững.

Mô hình phát triển chuỗi giá trị

Từ thập niên 1990, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, xuất hiện sự phân công quốc tế mới trong sản xuất công nghiệp với các khái niệm “chuỗi cung ứng toàn cầu” (Global supply chain - GSC) và “chuỗi giá trị toàn cầu” (Global value chain - GVC). Các nước đi sau có thể phát triển nhanh nếu thành công trong việc tham gia GSC và GVC, với điều kiện cải thiện được năng lực hạ tầng, cung cấp lao động có kỹ năng và đầu tư vào năng lực công nghệ của doanh nghiệp trong nước. Theo Michael Porter, chuỗi giá trị là tập hợp các hoạt động mà doanh nghiệp thực hiện để đưa sản phẩm từ khi còn là ý tưởng đến khi đưa vào sử dụng và cả dịch vụ sau bán hàng. Một chuỗi giá trị bao gồm các hoạt động như thiết kế mẫu mã, sản xuất, marketing, phân phối, hỗ trợ và các dịch vụ sau bán cho người tiêu dùng cuối cùng (Michael Porter - 1985, Competitive Advantage: Creating and Sustaining Superior Performance).

Chuỗi giá trị toàn cầu là chuỗi giá trị trong đó các hoạt động của chuỗi có thể được thực hiện bởi nhiều công ty và diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Trong chuỗi giá trị toàn cầu, mỗi nền kinh tế quốc gia chỉ là một bộ phận hữu cơ và biên giới quốc gia không còn là giới hạn chủ yếu quy định không gian của các chủ thể kinh tế.

Hiện nay, hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam không chỉ được nhìn nhận ở khía cạnh kim ngạch xuất khẩu hay nhập khẩu, mà quan trọng hơn là Việt Nam có thể tham gia sâu vào chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị toàn cầu. Và quan trọng hơn nữa là từ vị trí ban đầu, Việt Nam cần phải vươn lên được những vị trí có giá trị gia tăng cao hơn.

Theo kinh nghiệm của các tổ chức quốc tế, có 5 mô hình phát triển chuỗi giá trị có thể liên kết những nông dân nhỏ, doanh nghiệp và thị trường tạo thành chuỗi giá trị có tính cạnh tranh và bền vững, bao gồm: (i) Mô hình liên kết Nông dân và Thị trường; (ii) Mô hình hợp đồng Nông dân và Doanh nghiệp; (iii) Mô hình Doanh nghiệp lớn và Nông dân; (iv) Mô hình liên kết doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) và Thị trường; (v) Mô hình Chuỗi cung cấp siêu thị.

Trong Mô hình liên kết Nông dân và Thị trường, nông dân liên kết với dịch vụ thị trường và các bên liên quan khác trong chuỗi thông qua các tổ chức hỗ trợ cung cấp dịch vụ.

Trong Mô hình hợp đồng Nông dân và Doanh nghiệp, nông dân liên kết với doanh nghiệp thông qua hệ thống hợp đồng. Có hai loại hợp đồng, hợp đồng trực tiếp giữa doanh nghiệp và nông dân, và hợp đồng không trực tiếp thông qua thương gia và nhà cung cấp. Hợp đồng có thể là một phương pháp hiệu quả để lôi kéo người nông dân tham gia vào chuỗi, đặc biệt là để giải quyết thất bại của thị trường, phổ biến kỹ thuật mới, cung cấp dịch vụ hỗ trợ và giảm thiểu rủi ro. Tuy nhiên, phương thức này cũng có những hạn chế, bao gồm việc phá hợp đồng, lạm dụng quan hệ quyền lực không công bằng, cơ chế giải quyết tranh chấp không tốt và sự lựa chọn không đúng các hộ ký kết hợp đồng.

Hình 01: Mô hình chuỗi giá trị đa chủ thể

Trong Mô hình Doanh nghiệp lớn và Nông dân, người nông dân được coi là một đối tác trong doanh nghiệp chứ không phải chỉ là nhà cung cấp trong hợp đồng. Doanh nghiệp tư nhân lớn đảm bảo thị trường đầu ra cho một nhóm những bên liên quan, cũng như cung cấp dịch vụ khuyến nông và tín dụng theo hình thức đầu tư vào sản xuất. Để chương trình của doanh nghiệp tư nhân lớn thành công, doanh nghiệp cần phải có sự quản lý nhất định đối với sản xuất và hoạt động sau thu hoạch của các bên liên quan nhỏ cũng như phải có trách nhiệm xã hội đối với những người nông dân.

Trong Mô hình liên kết DNVVN và Thị trường, doanh nghiệp liên kết với dịch vụ thị trường và những bên liên quan khác trong chuỗi giá trị thông qua dịch vụ hỗ trợ của các tổ chức thể chế, ví dụ như Tổ chức phi chính phủ - NGOs.

Trong Mô hình Chuỗi cung cấp siêu thị, nông dân liên kết với siêu thị và các nhà bán lẻ lớn thông qua các tổ chức cung cấp. Siêu thị và các nhà bán lẻ sẽ có trách nhiệm đưa ra yêu cầu tiêu chuẩn chất lượng, cũng như các điều khoản trong hợp đồng cho nhà cung cấp. Nhà cung cấp sẽ chịu trách nhiệm tổ chức nông dân nhỏ, các nhóm nông dân để cung cấp hàng hóa theo những yêu cầu tiêu chuẩn chất lượng.

Các giải pháp phát huy vai trò của các chủ thể

1. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực cho hộ nông dân

- Tăng cường công tác tập huấn kỹ thuật chăm sóc, phòng trừ dịch bệnh xuất phát từ chính nhu cầu của nông dân. Nội dung tập huấn cần xuất phát từ chính “đơn đặt hàng” của nhà nông;

- Tổ chức và khuyến khích hình thành các nhóm, tổ liên kết trong phổ biến, trao đổi kinh nghiệm giữa các hộ trong thôn, xã. Đây là cầu nối quan trọng giữa Nhà khoa học và Nhà nông trong chuyển giao kỹ thuật;

- Tổ chức các chuyến thăm quan mô hình điểm có khả năng vận dụng tại địa phương từ quỹ hỗ trợ của khuyến nông xã, huyện và nguồn vận động đóng góp từ chính nhà nông;

- Tuyên truyền nâng cao nhận thức của nhà nông về tiêu thụ sản phẩm thông qua hợp đồng, xây dựng mối liên kết bền vững giữa nhà nông và các doanh nghiệp cung ứng đầu vào cũng như các doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ nông sản;

- Nâng cao khả năng tiếp cận thông tin thị trường cho nhà nông thông qua hệ thống thông tin.

- Ngoài việc đa dạng hoá sản phẩm trong sản xuất nông nghiệp, tích tụ ruộng đất để sản xuất hàng hoá, Việt Nam cần chính sách ưu tiên chế biến và đẩy mạnh sự hiện diện của nông sản và sản phẩm chế biến nông sản của Việt Nam ra thị trường thế giới, khai thác tối đa lợi thế khí hậu, vùng miền và bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu và rộng. Muốn vậy, cần có chính sách phát triển các doanh nghiệp và cơ sở chế biến sản phẩm nông sản, hệ thống logistics, hỗ trợ giới thiệu sản phẩm nông sản có chất lượng cao của Việt Nam.

2. Nhóm giải pháp củng cố và phát triển tổ hợp tác và hợp tác xã

Hợp tác xã (HTX) hoặc tổ hợp tác chính là cầu nối giữa nông dân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, vấn đề là làm thế nào phát triển HTX và tổ hợp tác và nâng cao hiệu quả hoạt động của chúng để HTX đủ sức đảm đương vai trò của mình. Sau đây là một số giải pháp củng cố và phát triển tổ hợp tác và HTX cụ thể như sau:

- Chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ cho công tác phát triển HTX, tổ hợp tác. Đây là khâu có tính chất quyết định, chọn cho được người nhiệt tình, có tâm huyết với cộng đồng và có hiểu biết nhất định về sản xuất - kinh doanh. Bên cạnh đó tiếp tục tăng cường chính sách hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý HTX, tổ hợp tác.

- Vận động người mua gom tham gia vào tổ hợp tác hoặc HTX. Người mua gom có kinh nghiệm thương mại và có quan hệ gần gũi với nông dân. Vì thế, tập họp họ vào trong một tổ chức và trở thành nhân vật trung gian trong sản xuất theo hợp đồng giữa doanh nghiệp và nông dân là điều cần thiết. Tóm lại, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX và tổ hợp tác sẽ góp phần thúc đẩy hình thức sản xuất theo hợp đồng phát triển.

3. Đối với các doanh nghiệp

- Phối hợp cùng với các nhà sản xuất rà soát, điều chỉnh lại quy hoạch diện tích trồng cây nguyên liệu, đảm bảo phát triển vùng nguyên liệu theo hướng tập trung, chuyên canh, cung cấp đủ nguyên liệu cho các doanh nghiệp chế biến. Tổ chức ký kết hợp đồng với nhà sản xuất và thu mua nguyên liệu, bao tiêu sản phẩm do người sản xuât.

- Ký hợp đồng với hộ nông dân, làm việc với địa phương cùng hoàn chỉnh các chính sách đầu tư phát triển vùng nguyên liệu (chính sách hỗ trợ dân khâu làm đất, giống, tập huấn kỹ thuật trồng và chăm sóc, công nghệ sau thu hoạch,... thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu, tuyển chọn giống cây trồng, con (vật) nuôi nguyên liệu cho phù hợp với tiểu vùng khí hậu thời vụ chế biến. Xây dựng các mô hình, điểm trình diễn kỹ thuật; tổ chức mô hình thâm canh cao, đưa năng suất và sản lượng nguyên liệu đủ đáp ứng cho yêu cầu chế biến.

4. Đối với các nhà khoa học

- Đề xuất các phương án áp dụng các tiến bộ vào sản xuất cho phù hợp với đặc điểm từng vùng miền, nhằm tạo ra sản phẩm có năng suất, chất lượng cao đáp ứng yêu cầu thị trường.

- Thiết lập mối quan hệ trực tiếp với nhà sản xuất thông qua chính quyền, đoàn thể ở địa phương để đến với nông dân, HTX, chủ trang trại để thực hiện việc chuyển giao khoa học và công nghệ cho sản xuất.

5. Tăng cường vai trò của Nhà nước

Nhà nước không phải là chủ thể tham gia vào quá trình liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp; giữa nông dân, doanh nghiệp với ngân hàng; giữa nông dân, doanh nghiệp với nhà khoa học. Thay vào đó, nhà nước sẽ đóng vai trò thúc đẩy các quá trình liên kết. Với vai trò là chủ thể quản lý, điều hành nền kinh tế, Nhà nước là người tổ chức lại sản xuất, đồng thời xử lý những mâu thuẫn phát sinh trong việc tranh chấp giữa các bên trong hợp đồng sản xuất và tiêu thụ nông sản.

- Thứ nhất, ban hành cơ chế chính sách; xây dựng quy hoạch và định hướng phát triển; đào tạo, huấn luyện cho cán bộ kỹ thuật, nông dân; hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng vùng nguyên liệu; thông tin thị trường; kiểm tra, giám sát,... với các hoạt động:

 + Ban hành và triển khai thực hiện tốt các chính sách có liên quan đến sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản, như: chính sách về đầu tư cơ sở hạ tầng, đất đai, thuế, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, khuyến nông, thông tin thị trường.

+ Thực hiện đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ kỹ thuật; tăng cường thực hiện công tác huấn luyện nâng cao kiến thức sản xuất, kinh doanh, kiến thức về tham gia liên kết sản xuất thông qua hợp đồng kinh tế cho người lao động, đặc biệt là nông dân, cán bộ hợp tác xã, tổ hợp tác, chủ trang trại.

+ Hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng vùng nguyên liệu tập trung theo quy hoạch, như giao thông nông thôn, giao thông nội đồng, thủy lợi, điện, kho chứa sản phẩm nông thủy sản, bến bãi,… phục vụ cho nhu cầu sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.

+ Tổ chức thực hiện công tác thông tin thị trường và cảnh báo để tổ chức sản xuất có hiệu quả bằng nhiều hình thức như: tuyên truyền miệng thông qua hoạt động khuyến nông và bằng văn bản hành chính; phát hành bản tin nông nghiệp và giá cả thị trường; mở lớp tập huấn tin học văn phòng, truy cập thông tin cho cán bộ cấp xã, các tổ chức hợp tác, trang trại và nông dân để có điều kiện tiếp cận; triển khai nhân rộng hình thức truy cập thông tin đến các câu lạc bộ nông dân, các tổ chức hợp tác; xây dựng trạm thông tin, khoa học công nghệ ở một xã điểm, tiến tới nhân rộng trên địa bàn.

+ Thực hiện tốt chức năng kiểm tra, giám sát trong quá trình từ sản xuất đến thu mua, chế biến và tiêu thụ sản phẩm; giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng liên kết theo quy định của pháp luật.

- Thứ hai, đẩy mạnh hoạt động khuyến nông:

+ Nhận chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ sinh học trong sản xuất, lai tạo giống lúa, tạo nguồn giống tốt, sạch bệnh, đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất.

+ Đẩy mạnh chuyển giao ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất; kiện toàn và mở rộng hệ thống sản xuất giống cộng đồng, cả về quy mô và chất lượng.

+ Đẩy mạnh thực hiện cơ giới hóa các khâu sản xuất, tăng nhanh diện tích ứng dụng cơ giới hóa trong khâu gieo sạ, thu hoạch lúa, công nghệ sau thu hoạch…

- Thứ ba, tổ chức, hướng dẫn, điều phối các hoạt động nhằm sử dụng và phát huy có hiệu quả hơn các nguồn lực phát triển; bảo đảm nguồn kinh phí và lồng ghép các chương trình để thực hiện các dự án có liên quan đến sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản.

6. Vai trò của các Hiệp hội

- Đại diện cho doanh nghiệp thành viên có tiếng nói chính thức với Chính phủ về những nguyện vọng chính đáng của doanh nghiệp trong tham gia FTA thế hệ mới.

- Hỗ trợ đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ kỹ thuật, kỹ năng, xúc tiến tham gia các liên kết giữa các bên tham gia FTA thế hệ mới.

- Tư vấn và phản biện chính sách của Chính phủ trong việc hoạch định các chiến lược quốc gia tham gia FTA thế hệ mới, phát triển thị trường.

- Phổ biến các tiến bộ kỹ thuật, khoa học và công nghệ, những kinh nghiệm về tổ chức quản lý kinh doanh tiên tiến của các doanh nghiệp thành công trên thế giới.

- Tăng cường hoạt động tư vấn doanh nghiệp:cung cấp chuyên gia tư vấn trong các lĩnh vực như: luật pháp, thuế, tài chính, kỹ thuật, lao động, môi trường và hướng dẫn các tiêu chuẩn quốc tế và tiêu chuẩn của các nước thành viên FTA về chất lượng, an toàn, về TBT, SPS, tiêu chuẩn lao động, môi trường trong sản xuất, kinh doanh…

- Nâng cao năng lực chuyên môn hoá và tính chuyên nghiệp của hoạt động hiệp hội. Hiệp hội cần hoạt động một cách chuyên nghiệp dưới dạng một tổ chức nghề nghiệp xã hội chứ không phải là một tổ chức hành chính hoá.

- Tăng cường hoạt động hợp tác quốc tế, tham gia mạng lưới hiệp hội nghề nghiệp và ngành hàng khu vực và toàn cầu./.

Vũ Huy Hùng

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT

TS. Hoàng Vĩnh Thắng

Học viện Ngân hàng Hà nội

BÀI VIẾT KHÁC