NGHIÊN CỨU

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Nghiên cứu

Thực trạng và giải pháp phát triển thương mại thị trường nông thôn (Phần 1)

20/10/2022

Kết quả đạt được và những vấn đề đặt ra

Hơn 35 năm đổi mới, trên bình diện cả nước nói chung và nông thôn, miền núi, vùng cao, biên giới nói riêng, thương mại, thị trường đã có bước phát triển, gắn kết với thị trường cả nước. Với những thành tựu đạt được trong phát triển sản xuất nông nghiệp và xu hướng gia tăng việc làm, thu nhập của dân cư đã từng bước được cải thiện.

Cơ sở hạ tầng thương mại trên các địa bàn miền núi trọng điểm từng bước được nâng cấp, cải tạo, xây mới, với loại hình ngày càng đa dạng đã góp phần “khỏa lấp cái nghèo”, làm phong phú thêm bộ mặt thương mại và thị trường miền núi, vùng cao, biên giới. Giữa các vùng miền núi trọng điểm, so với tổng số chợ hiện có trên địa bàn cả nước, tỷ trọng và số chợ tính trên 1.000 dân vùng Bắc trung bộ và Duyên hải miền Trung vẫn là vùng đứng đầu 28,1% và 11,9. Tây Nguyên là vùng có tỷ lệ thấp nhất (4,5% và 6,6).

Hàng triệu hộ gia đình đã thoát nghèo, nhiều hộ có cuộc sống trung bình, khá giả; nhiều địa bàn nghèo thoát khỏi tình trạng khó khăn, một số địa bàn đạt chuẩn nông thôn mới; tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh.

Tuy nhiên, do lãnh thổ nước ta trải dài trên nhiều vĩ tuyến, bề ngang hẹp, địa hình phức tạp, mang đậm nét của sự phân dị sâu sắc về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội. Ở các vùng có đồng bào dân tộc thiểu số, tỷ suất hàng hoá nhỏ, thu nhập thấp, hầu hết chưa có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Trên các dải núi cao, vùng biên giới từ Bắc vào Nam, nhiều nơi sản xuất vẫn mang tính chất kinh tế tự nhiên. Những đặc điểm trên đã có ảnh hưởng, tác động không nhỏ đến “công cuộc” xoá đói, giảm nghèo đang được thực hiện cũng như việc phát triển và làm thay đổi bộ mặt thương mại và thị trường.

Thương mại mới phát triển sôi động ở các đô thị trung tâm nhưng phát triển chậm ở các khu vực nông thôn, đặc biệt là ở khu vực miền núi, hải đảo, vùng sâu vùng xa.

Số người kinh doanh buôn bán, dịch vụ tăng nhanh nhưng mang tính chất tự phát, phân tán, quy mô nhỏ, vốn ít, mua bán qua nhiều tầng nấc trung gian. Chưa thiết lập được mối liên hệ lâu dài giữa sản xuất với lưu thông, giữa bán buôn và bán lẻ theo những kênh lưu thông hợp lý, ổn định, đặc biệt là việc bán vật tư nông nghiệp, mua nông sản, thực phẩm để tạo điều kiện thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hoá.

Nếu nhìn toàn cảnh và phân tích thực trạng thị trường ở các khu vực, vùng sâu, vùng xa có thể nói thị trường nông thôn (TTNT) nước ta vẫn là một thị trường nghèo với sức mua bình quân đầu người khá thấp.

Theo báo cáo của Ủy ban Dân tộc tháng 8/2019, khu vực miền núi, thu nhập thực tế bình quân một người dân tộc thiểu số khoảng 1,1 đến 1,2 triệu đồng/tháng, tương đương với 13-14 triệu đồng một năm. Như vậy, mức thu nhập của khu vực đồng bào dân tộc thiểu số chỉ bằng 1/5 mức thu nhập chung cả nước. Có gần 1 triệu hộ gia đình nghèo, chiếm 20% tổng dân số. Riêng các huyện nghèo, tỷ lệ nghèo bình quân khoảng 45%. Một số huyện miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, miền núi duyên hải miền Trung, Tây Nam Bộ là những nơi có tỷ lệ hộ nghèo cao (trên 50%).

Kết quả khảo sát mức sống dân cư năm 2021 của Tổng cục Thống kê, thu nhập bình quân 1 người 1 tháng năm 2021 theo giá hiện hành đạt 4,205 triệu đồng, giảm 1,1% so với năm 2020. Thu nhập bình quân 1 người 1 tháng năm 2021 ở khu vực thành thị đạt 5,388 triệu đồng, cao gấp gần 1,5 lần khu vực nông thôn (3,486 triệu đồng). So với năm 2020, thu nhập bình quân 1 người 1 tháng năm 2021 ở khu vực nông thôn không thay đổi đáng kể. Xét theo từng địa phương, Điện Biên là tỉnh có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất cả nước với 1,821 triệu đồng/người/tháng. Xếp trên Điện Biên lần lượt là Sơn La (1,834 triệu đồng/người/tháng), Hà Giang (1,933 triệu đồng/người/tháng), Lai Châu (2,05 triệu đồng/người/tháng), Bắc Kạn (2,125 triệu đồng/người/tháng). Ngoài ra, trong top 10 còn có Cao Bằng (2,273 triệu đồng/người/tháng), Gia Lai (2,329 triệu đồng/người/tháng), Lạng Sơn (2,471 triệu đồng/người/tháng), Lào Cai (2,515 triệu đồng/người/tháng) và Kon Tum (2,517 triệu đồng/người/tháng).

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Có thể thấy các tỉnh có thu nhập thấp tập trung hầu hết tại vùng trung du và miền núi phía Bắc, đây cũng là vùng có thu nhập thấp nhất cả nước (2,837 triệu đồng/người/tháng). Trong năm 2021, vùng có thu nhập bình quân đầu người cao nhất là vùng Đông Nam Bộ (5,794 triệu đồng/người/tháng). Tuy nhiên, chỉ số giá sinh hoạt của một số tỉnh này lại lọt top "đắt đỏ" nhất cả nước theo chỉ số SCOLI (Chỉ số giá sinh hoạt theo không gian, phản ánh xu hướng và mức độ biến động giá sinh hoạt giữa các vùng, địa phương trong một thời gian nhất định - thường là một năm). 

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Có thể thấy, các tỉnh Lào Cai, Lạng Sơn, Sơn La và Điện Biên có chỉ số SCOLI khá cao nằm trong top 10 các tỉnh, thành "đắt đỏ" nhất cả nước. Ngoài ra, các tỉnh khác trong top 10 thu nhập bình quân thấp nhất có thứ hạng SCOLI như sau: Bắc Kạn (15), Cao Bằng (20), Kon Tum (23), Lai Châu (24) và Hà Giang (25). Duy nhất Gia Lai có chỉ số SCOLI thấp, nằm ở vị trí 57.

10 địa phương có khoảng cách giàu nghèo lớn nhất là Cao Bằng, Lai Châu, Bắc Kạn, Sơn La, Gia Lai, Quảng Trị, Điện Biên, Lào Cai, Trà Vinh, Đắk Nông.

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Chênh lệch thu nhập giữa nhóm 20% giàu nhất và 20% nghèo nhất

Hệ số GINI (theo thu nhập) của Việt Nam năm 2021 là 0,374, không biến động nhiều so với năm 2020 (0,373) và vẫn giữ ở mức bất bình đẳng trung bình.Mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập ở khu vực nông thôn cao hơn khu vực thành thị. Hai vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao là Trung du miền núi phía Bắc và Tây Nguyên cũng là hai vùng có hệ số GINI cao nhất (tương ứng 0,428 và 0,418), Đông Nam Bộ là vùng có hệ số GINI thấp nhất (0,322). Tình trạng nghèo tồn tại trong các nhóm dân tộc thiểu số và dân cư các vùng ven biển, hải đảo là một thách thức đối với Việt Nam trong việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs), nguy cơ tái nghèo và phát sinh nghèo còn cao.

Mặc dù tỷ lệ lực lượng lao động trong nông nghiệp giảm đi nhưng tỷ lệ người nghèo lại tăng lên. Thực tế này chứng minh giả thiết về sự gia tăng bất bình đẳng của Kuznets trong một nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam khi mà người nghèo chủ yếu tập trung trong lĩnh vực nông nghiệp và thu nhập của bộ phận làm việc trong khu vực phi nông nghiệp cao hơn ở khu vực nông nghiệp.

Nhìn chung, mức chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người/tháng vẫn có xu hướng tăng, chiếm tỷ trọng cao trong tổng chi tiêu. Trung du - miền núi phía Bắc và Bắc trung bộ - Duyên hải miền Trung là hai địa bàn có tỷ trọng chi tiêu cho đời sống cao nhất. Khoản chi tiêu khác chiếm tỷ trọng thấp. Quỹ mua nhỏ, mang tính phân tán, nhìn chung thu nhập chưa đạt đến mức đủ lớn làm thay đổi về chất của TTNT hiện nay.

Tái cơ cấu nông nghiệp chưa chạm đến doanh nhân, doanh nghiệp. Nhiều chính sách khuyến khích, nhưng tới nay tỉ lệ doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn còn rất thấp. Trong khi đó,nếu không có doanh nghiệp thì không thể đưa nông nghiệp tiến lên hiện đại.

“Chuỗi giá trị” hay “liên kết bốn nhà” chưa chạm đến phần lõi thực tế. Tư duy của các chương trình phát triển nông nghiệp hay nông thôn mới đang tiếp cận ở một góc tương đối hẹp, và theo đó, chính sách mới chỉ giới hạn ở các khoản hỗ trợ cho sản xuất và nặng về trợ cấp. Với hiểu biết về thị trường, kiến thức và kỹ năng về quản lý, chỉ có doanh nghiệp mới có đủ năng lực để “kéo” chuỗi giá trị nông nghiệp đi lên. Tiếc thay, “nhà doanh nghiệp” chưa được đặt vào vị trí trung tâm trong các thiết kế chính sách.

Trong lúc bối cảnh nông nghiệp hội nhập và cạnh tranh đã thay đổi nhanh chóng, tiêu thụ được sản phẩm,với giá bao nhiêu, trở thành bài toán cốt yếu. Các hộ nông dân đã và đang phải chịu hai sức ép lớn: Bám chặt lấy ruộng đất, rừng và đồi núi để sản xuất nông nghiệp vốn đã ít lại càng giảm nhanh do sự gia tăng tăng dân số nông nghiệp và khuynh hướng đô thị hoá, công nghiệp hoá tăng nhanh,càng thúc đẩy họ xuống những bậc thấp hơn của nấc thang thu nhập giữa các nhóm dân cư trong xã hội. Khuynh hướng tự cấp, tự túc không những không được khắc phục mà ngược lại càng được củng cố thêm, cộng với tư tưởng phát triển nông nghiệp truyền thống đã ngự trị lâu dài, mang tính phổ biến trong mọi vùng nông thôn sẽ là một trong những tác nhân chủ yếu kìm hãm sự phát triển thị trường. Kết quả là TTNT, đặc biệt là khu vực miền núi, vùng cao, biên giới đang có khuynh hướng bị khu vực hoá ở một số vùng hết sức khó khăn, có nơi thậm chí chưa có những tiền đề cần thiết cho kinh tế hàng hoá. Thị trường miền núi - vùng cao - biên giới, nơi tập trung sự yếu kém sơ khai của nền thương mại nhỏ đang trong giai đoạn quá độ đi lên sản xuất hàng hoá và vẫn xem là bộ phận kém phát triển nhất của thị trường cả nước.

Kết cấu hạ tầng thương mại yếu,thiếu đồng bộ, tính liên kết trong và giữa các doanh nghiệp với nhau còn kém; đại bộ phận doanh nghiệp thương mại nhỏ bé trong điều kiện nguồn vốn lại hạn hẹp. Khả năng tích tụ và tập trung các nguồn lực chưa bảo đảm đủ sức để cạnh tranh và hợp tác.

Phương thức kinh doanh lạc hậu, thiếu tính chuyên nghiệp, trình độ đội ngũ quản lý không bắt kịp yêu cầu phát triển thương mại theo xu hướng hiện đại và tiến trình hội nhập quốc tế.

Nhận thức về vị trí, vai trò của chợ trong phát triển kinh tế - xã hội tại nhiều địa phương còn chưa đầy đủ và chưa được quan tâm thích đáng. Nguồn vốn phát triển chợ chưa được quan tâm đầu tư hoặc nếu được đầu tư từ ngân sách trung ương hoặc địa phương thì còn ở mức độ khá khiêm tốn, đa phần là từ nguồn vốn xã hội hóa.Chỉ các chợ có khả năng sinh lời mới có động lực thu hút được nguồn vốn xã hội hóa đầu tư, do vậy chợ tại các khu vực nông thôn, địa bàn khó khăn khó thu hút được đầu tư vì khả năng sinh lời thấp.

Mạng lưới thương mại bán lẻ (chợ, siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi, chuyên doanh...) tăng nhanh nhưng phân bố không đều, tập trung chủ yếu và phát triển mạnh ở các thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành thương mại (đặc biệt là mạng lưới chợ) do xây dựng từ lâu, đã xuống cấp, cần được nâng cấp và xây dựng lại. Chợ lán, tạm chủ yếu ở khu vực nông thôn, tại các địa bàn không thuộc diện được hỗ trợ đầu tư từ ngân sách trong khi người dân và doanh nghiệp không có khả năng hoặc không muốn đầu tư vì không có lợi nhuận. Tỷ lệ chợ bán kiên cố, chợ lán tạm khá cao (trên 70%), cơ sở vật chất kỹ thuật còn nhiều hạn chế, trong khi nhu cầu mua bán, trao đổi của người dân ngày một tăng.

Sau hơn 35 năm thực hiện đổi mới trong nông nghiệp, tuy còn nghèo nhưng trong nông thôn đã có mức tích luỹ đáng kể, nhưng trên thực tế đại bộ phận khoản để dành này đã bị hút vào việc xây dựng, cải tạo  nhà ở, mua sắm đồ dùng, phần dành cho tái sản xuất mở rộng là còn thấp. Như vậy ngay trong nông thôn, khu vực đổi mới sớm nhất, cởi mở nhất thì hệ thống thể chế và chính sách cũng chưa đủ sức cuốn hút các chủ thể kinh doanh thực sự “tiết kiệm” để ưu tiên đầu tư cho phát triển.

Từ nay đến năm 2025, nếu xác định chiến lược chung của nền kinh tế nước ta là “hướng về xuất khẩu” thì kinh tế nông nghiệp miền núi Việt Nam sẽ xuất khẩu cái gì ra thị trường thế giới và khu vực? Liệu nông nghiệp miền núi có những con đường riêng của mình để đi vào thị trường nông sản thế giới mà ta có lợi thế?

Là khu vực rộng lớn, nông thôn, miền núi Việt Nam là một địa bàn chiến lược, có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước. Trong bối cảnh đó, TTNT có vị trí trung tâm và là thị trường chiến lược trong hệ thống thị trường nội địa thống nhất ở một  quốc gia mà đa phần dân chúng là nông dân. Như vậy việc tổ chức tốt lưu thông hàng hóa nhằm tạo ra những tiền đề bên trong cho sản xuất và phân công lao động trong nông nghiệp theo hướng mở rộng các ngành nghề chế biến dịch vụ bên cạnh sản xuất nông nghiệp, đồng thời tạo ra các tiền đề bên ngoài (nhất là mở rộng thị trường xuất khẩu) để đưa sản xuất hàng hoá ở nông thôn, miền núi lên qui mô lớn, tiếp cận với thị trường thế giới là việc làm cấp bách. (còn tiếp)

Vũ Huy Hùng

Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến thương mại - VIOIT

BÀI VIẾT KHÁC