NGHIÊN CỨU

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Nghiên cứu

Thế giới “không phẳng” và giải pháp cho Việt Nam ​

07/03/2024

Tái toàn cầu hóa

“Thế giới phẳng” - tên một cuốn sách của Thomas Friedman xuất bản và phát hành lần đầu tiên vào năm 2005, đã trở thành thuật ngữ quen thuộc chỉ sự phát triển toàn cầu hóa từ những năm đầu của thế kỷ XXI, khi mười nhân tố lớn liên quan đến kinh tế và khoa học kỹ thuật trên thế giới cùng nhau tác động, khiến cho các mô hình chính trị, xã hội bị thay đổi và thế giới trở nên “phẳng” hơn bao giờ hết.

Tuy nhiên, những diễn biến trong năm 2023 cho thấy sự hồ hởi về tự do thương mại với dự báo sẽ làm cho “thế giới phẳng” hơn mà Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) lấy làm nền tảng sẽ không còn và về thực tế sẽ càng ngày càng bị chính trị hóa. Kinh tế toàn cầu năm 2024 tiếp tục đối diện với những rủi ro, bất định, khó lường do có quá nhiều bất ổn diễn ra. Những dự báo về của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) được công bố vào tháng10/2023 cho thấy kinh tế toàn cầu năm 2024 sẽ chỉ đạt 2,9%. WTO dự báo GDP toàn cầu sẽ giảm 5% trong dài hạn và có thể sẽ giảm thêm 12% ở các quốc gia chậm phát triển nếu thế giới tách thành hai khối thương mại.

Trên bình diện chung, hai xu hướng đang nổi lên : (i) friend-shoringchuỗi cung ứng dịch chuyển đến các nước được xem là an toàn về chính trị và kinh tế, ít rủi ro và (ii) reshoring - chuyển dịch đầu tư về bản địa hay nearshoring - về các vùng xung quanh “mẫu quốc”. Theo The Economist, xu hướng "friend-shoring" cũng tương tự như "nearshoring"với mục tiêu tăng cường an ninh thương mại, nhưng hiệu quả cần phải bàn luận khi nơi sản xuất hàng hóa được quyết định bởi yếu tố chính trị thay vì lợi nhuận. Thế giới ngày nay vì thế đang trở nên hướng nội và quay lưng lại với thương mại và đầu tư mở.

Nhiều dấu hiệu và chỉ báo cho thấy toàn cầu hóa đã bước sang một giai đoạn mới mà nhiều người gọi là “tái toàn cầu hóa”. Tổng giám đốc WTO, Okonjo-Iweala nhận định “tái toàn cầu hóa” có thể kéo dài trong nhiều năm, xong sẽ là một nhân tố quan trọng hấp dẫn, lôi cuốn các nền kinh tế vào dòng chảy thương mại thế giới.

Sự gia tăng bất ổn và các biện pháp hạn chế thương mại sẽ làm phân mảnh hệ thống thương mại toàn cầu[1]. WTO cảnh báo, thương mại toàn cầu đang có xu thế phân mảnh thành các khối. Xu hướng này có thể gia tăng khi các rào cản thương mại ngày một nhiều hơn (năm 2019, theo IMF, các quốc gia đã áp đặt gần 1.000 hạn chế thương mại, sấp sỉ con số 3.000 vào năm 2022).

Theo nhiều chuyên gia, thành tựu của hội nhập kinh tế trong những thập niên đã qua có thể bị đảo ngược khi làn sóng phản đối các rào cản đối với thương mại hàng hóa ngày càng lan rộng (số vụ kiện phản đối thuế áp vào hàng nhập khẩu được nhà nước trợ cấp là 164 trong giai đoạn 2017-2022, gấp đôi so với giai đoạn 2011-2016).

Các thị trường nhập khẩu quan trọng triển khai áp dụng thuế suất cao đối với các sản phẩm có "dấu chân carbon" lớn và nhiều nền kinh tế phát triển đã đặt ra những quy định liên quan đến môi trường khắt khe hơn đối với hàng hóa nhập khẩu.

Thỏa thuận Xanh EU (European Green Deal - EGD), được phê duyệt vào năm 2020, có thể xem là một kế hoạch toàn diện, một lộ trình với các hành động cắt giảm triệt để lượng phát thải khí nhà kính ít nhất là 55% vào năm 2030 (so với năm 1990) và biến cuộc khủng hoảng khí hậu thành bước tiến để phát triển bền vững hơn trong tương lai. Theo đó, Cơ chế Điều chỉnh carbon Biên giới (Carbon Border Adjustment Mechanism - CBAM) thực thi từ 1/10/2023 cùng Quy định về chống phá rừng (EU Deforestation-free Regulation - EUDR) có hiệu lực vào tháng 12/2024 được áp dụng với các sản phẩm có hàm lượng phát thải cao, nhập khẩu vào EU sẽ có tác động và ảnh hưởng không nhỏ tới các ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam như dệt may,giày dép, bao bì, nông sản và thủy sản, sắt thép…

Sau khi CBAM được áp dụng, các quốc gia Hoa Kỳ, Canada và Nhật Bản đang xem xét đưa ra các cơ chế riêng. Hoa Kỳ đã xây dưng Đạo luật cạnh tranh Sạch (Clean Competition Act - CCA), bản dự luật lần 1 đã được ban hành vào tháng 7 năm 2021 và dự kiến áp dụng sau năm 2023.

Và những vấn đề đặt ra

Ngày nay, tự do hóa thương mại không còn mang ý nghĩa đơn thuần là mua bán giữa các nước - nó còn là sự đổi chác mang tính địa chính trị. Cuộc chơi thương mại ngày càng khốc liệt và bất quy tắc. Hàng Việt Nam sẽ vấp phải sức "công phá" mạnh mẽ của hàng ngoại "đổ bộ" vào. Các rào cản kỹ thuật được xem như "binh pháp" trong thương mại sẽ tái xuất hiện. Các thị trường xuất khẩu truyền thống sẽ trở nên "vời xa" do yêu cầu cao về vấn đề an toàn cho người tiêu dùng, chống biến đổi khí hậu, những tiêu chuẩn, quy định liên quan đến chuỗi cung ứng, nguyên liệu, lao động, môi trường. Các quy định như thu phí carbon, yêu cầu về hàm lượng tái chế đối với hàng nhập khẩu, nhãn sinh thái…đã và đang hình thành nên “luật chơi” mới về thương mại và đầu tư là hàng loạt những khó khăn không dễ gì khắc phục trong một sớm một chiều.

Năm 2023, chứng kiến 2 "cơn gió ngược" đến từ sự suy giảm kinh tế thế giới, các đối tác thương mại, đầu tư chính của Việt Nam và mức độ phục hồi của nền kinh tế Trung Quốc cùng các điều kiện tài chính tiền tệ chưa bao giờ "ngặt nghèo" như vậy: lãi suất, sức ép lên tỷ giá, lạm phát.

Bên trong Việt Nam có 2 “vòng gió xoáy”, xuất hiện từ cuối năm 2022, khi chúng ta vấp phải vấn đề thanh khoản, vấn đề về bảng cân đối tài sản của nhiều ngân hàng, áp lực lãi suất, tỷ giá, thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản. Kinh tế thực, từ quý IV/2022, giảm sút rõ rệt, đặc biệt là xuất khẩu…

Có thể nói đây chính là thời điểm để chúng ta nhìn nhận, suy ngẫm, đánh giá, nhận diện xu thế…tìm ra các quyết sách và giải pháp để duy trì, tìm kiếm đối tác, mở rộng và phát triển thị trường, nâng cấp quản trị …

Giải pháp cho Việt Nam

Đến nay, chúng ta đã ký kết và thực thi 16 hiệp định Thương mại tự do (FTA) và 3 FTA đang tiếp tục được đàm phán. Các FTA đã đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn (200% GDP), tiếp cận và thiết lập quan hệ thương mại với gần 230 thị trường. Tuy nhiên, lợi ích quốc gia thu được từ tiến trình hội nhập chưa tương xứng với tiềm năng, vị thế địa kinh tế, địa chính trị của đất nước.

Ngày nay, mọi quốc gia và dân tộc đang đứng ở bước ngoặt phát triển có tính thời đại, chứng kiến cuộc cách mạng làm lay động khối óc mọi con người trong tư duy và nhận thức về sự phát triển. Bám sát và đón đầu xu hướng phải được coi là tư tưởng chủ đạo,là quan điểm xuyên suốt và “Cover” toàn bộ quá trình xây dựng thể chế, chiến lược phát triển. Trước mắt, cần tập trung vào một số công việc cấp bách sau:

(1). Thể chế kinh doanh cần tiếp cận nhanh với các chuẩn mực,thông lệ của thế giới. Tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh để khơi thông mạnh mẽ được các nguồn lực. Phải tạo đột phá về đơn giản hoá thủ tục hành chính trong đăng ký kinh doanh, thu thuế, hải quan, kiểm tra, thanh tra hoạt động doanh nghiệp. Gắn với tình hình thực tiễn, kết hợp với các cam kết để sửa đổi hệ thống phi thuế quan của Việt Nam. Xây dựng cơ chế quản lý phù hợp với môi trường kinh doanh số.

Nâng cấp Cổng thông tin một cửa quốc gia để tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp, tiến tới số hóa hồ sơ, số hóa quy trình thủ tục, giảm đầu mối tiếp xúc giữa doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước.

Đẩy mạnh phát triển thương mại điện tử, hình thành các sàn giao dịch hàng hóa, các khu vực hội chợ, triển lãm quy mô lớn...

Việc hoàn thiện và đổi mới cơ chế, chính sách để khuyến khích nhập khẩu cạnh tranh nhằm đổi mới công nghệ, phát triển công nghiệp phụ trợ, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu và hàng sản xuất thay thế nhập khẩu có thể xem là hướng đi - định hướng hợp quy luật trong bối cảnh hiện nay. Theo đó cần tiếp tục:

- Xây dựng chính sách cởi mở để khuyến khích, thu hút đầu tư phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ nhằm từng bước giảm thấp kim ngạch nhập khẩu.

- Nâng cấp và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật. Mở rộng hợp tác khu vực để hài hoà hoá tiêu chuẩn. Rà soát chế tài đối với hàng nhập khẩu nhằm hạn chế và tiến tới loại bỏ việc nhập khẩu công nghệ cũ, công nghệ lạc hậu.

- Thử nghiệm đấu giá các giấy phép nhậu khẩu đối với những hàng hoá gây ảnh hưởng lớn đến môi trường sinh thái.

Thiết lập chương trình đánh giá định kỳ hằng năm về hiệu quả thực thi các FTA một cách toàn diện, nhận diện và xử lý kịp thời các vấn đề cản trở. Cùng với đó, đánh giá mức độ hiểu biết, khả năng tận dụng, ảnh hưởng của các FTA, các lực cản trong thực thi FTA của doanh nghiệp ...

Xúc tiến việc đàm phán các FTA mới, ở dạng thức thích hợp (song phương, đa phương, khu vực) với một số thị trường tiềm năng cho xuất khẩu của Việt Nam (Hoa Kỳ, Nam Mỹ, đặc biệt là Khối MERCOSUR là khu vực kinh tế nhiều tiềm năng, không cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam; Châu Phi …).

(2). Để quá trình chuyển đổi số nhanh,hiệu quả,cần nâng cao nhận thức của lãnh đạo các doanh nghiệp ,chủ động tìm hiểu, lựa chọn các công nghệ phù hợp với lĩnh vực hoạt động,lựa chọn đối tác để thực hiện quá trình số hóa.Đầu tư hệ thống máy móc,thiết bị,công nghệ phù hợp và nguồn nhân lực.

(3). Sẽ không thể có kinh tế thị trường nếu không có những con người nắm vững và vận hành tốt các quy luật của kinh tế thị trường. Nguồn nhân lực cần được ctrọng đào tạo ứng dụng các kỹ năng nghiên cứu thị trường, marketing,kỹ năng đàm phán quốc tế,nghiệp vụ kỹ thuật ngoại thương, trình độ ngoại ngữ, tin học…đặc biệt kỹ năng về phân tích, xử lý, dự báo, xây dựng chiến lược. Lãnh đạo doanh nghiệp cần được tạo cơ hội cọ xát, thông qua các hoạt động giao lưu,và đào tạo ngắn hạn.

(4). Phát triển thương hiệu xanh không chỉ còn là đạo đức mà đã trở thành luật chơi mới sau sự kiện COP26 mà ở đó, Việt Nam cam kết đưa mức phát thải ròng về zero vào năm 2050. Xây dựng kế hoạch để xanh hóa sản xuất, đảm bảo minh bạch truy xuất nguồn gốc trong toàn bộ chuỗi giá trị, thực hiện trách nhiệm xã hội, bảo vệ môi trường cần được chú trọng. Như vậy, đổi mới công nghệ, áp dụng kỹ thuật số, hướng đến các tiêu chí sản xuất xanh, sạch, tuần hoàn, thân thiện môi trường…là những vấn đề mang tính chiến lược cho doanh nghiệp trong thời gian tới .

(5). Hoàn thiện cơ chế phối hợp thông tin giữa các cơ quan quản lý, các hiệp hội ngành hàng, thiết lập kênh truyền tải thông tin tới doanh nghiệp, nông dân. Cơ chế thu thập, xử lý thông tin cũng cần đổi mới nhằm cung cấp kịp thời tình hình chính trị, thị trường, chính sách, biện pháp quản lý xuất nhập khẩu....

Các hoạt động xúc tiến thương mại cần được tăng cường. Đặc biệt ở những thị trường ngách, thị trường mới của các doanh nghiệp Việt Nam.

Làm thế nào để nước ta có thể cải thiện được phần của mình trong thế giới này? Lời khuyên đặt ra là: “Chúng ta phải từ bỏ việc cố tìm ra điều sẽ phải làm bằng cách dựa vào điều chúng ta đã  làm. Ở thế kỷ 21, người chiến thắng là những ai đứng phía trước đường cong thay đổi, tạo ra thị trường mới, khai phá con đường mới, sáng tạo lại các quy tắc cạnh tranh, thách thức với hiện trạng… Đó là những người  sáng tạo ra thế giới chứ không phải những người chỉ biết ứng phó với thế giới ”. Đây chính là bài học kinh nghiệm của các con rồng châu Á mà Việt Nam cần phải học tập!

Vũ Huy Hùng

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT


[1] Phát biểu tại cuộc họp báo ở Singapore hôm 28-10-2022 của Krishna Srinivasan, Giám đốc bộ phận châu Á và Thái Bình Dương của IMF,

BÀI VIẾT KHÁC