Bối cảnh mới của kinh tế và thương mại thế giới
Trên bình diện toàn cầu, Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (HĐTQTM - GATT) ra đời ngày 1-1-1948, là sự cam kết của các nước thành viên GATT không trở lại chính sách mậu dịch “siêu bảo hộ” của những thập niên đầu thế kỷ 20, là sự phản ánh xu hướng tự do hóa thương mại, đồng thời vẫn chấp nhận chính sách bảo hộ mậu dịch có tính tự vệ bằng các biện pháp thuế quan. Hiệp định cũng dành cho các nước đang phát triển một số ưu đãi so với các nước phát triển. Nhìn chung, GATT là một hệ thống các qui định về thương mại quốc tế đối với các nước thành viên, đã thu hút được sự tham gia của đông đảo các quốc gia trên thế giới. Các nước ngày càng nhận thức được lợi ích lâu dài của chính sách tự do hóa thương mại đối với sự phát triển và tăng trưởng nền kinh tế quốc dân. Từ 23 nước thành viên ban đầu, năm 1993 tăng lên 113 nước, chiếm 90% doanh số thương mại thế giới và 125 nước năm 1994.
Tự do hóa thương mại, với nội dung giảm thiểu, từng bước xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan cản trở giao lưu hàng hóa và dịch vụ, phù hợp với xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế, toàn cầu hóa và khu vực hóa kinh tế, trên cơ sở lý thuyết “lợi thế so sánh” và quan điểm kinh tế mở. Dưới góc độ đó, đối với các quốc gia, tự do hóa thương mại là một tất yếu khách quan, một mục tiêu cần đạt. Mặt khác, tự do hóa thương mại mà hệ quả là “mở cửa” thị trường nội địa cho hàng hóa, dịch vụ nước ngoài xâm nhập, thường có lợi cho các nước phát triển, có tiềm lực về kinh tế, khoa học và công nghệ, hàng hóa và dịch vụ có sức cạnh tranh cao và về cơ bản không có lợi cho các nước đang, nhất là kém phát triển mà hàng hóa và dịch vụ chưa đủ sức cạnh tranh với hàng hóa và dịch vụ của nước ngoài, ngay ở thị trường nước mình.
Tự do hóa thương mại là một quá trình, trong quá trình đó, bất kỳ quốc gia nào, dù lớn hay nhỏ, dù phát triển hay đang phát triển, đều phải xuất phát từ lợi ích của bản thân và phải căn cứ vào điều kiện cụ thể của mình để xử lý vấn đề, trên cơ sở kết hợp 2 mặt đối lập: tự do và bảo hộ, trong chính sách thương mại, với mức độ khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện từng nước, từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Điều đó giải thích tại sao các nước phát triển đều cổ vũ mạnh mẽ cho chính sách tự do thương mại, tuy mức độ có khác nhau, trong khi các nước đang phát triển lại dè dặt hơn đối với chính sách này và nói chung đều thực hiện chính sách bảo hộ mậu dịch với mức độ khác nhau đối với những mặt hàng hoặc dịch vụ nhất định.
Từ giữa những năm 1980, đối với các nước phát triển, mức độ bảo hộ mậu dịch có giảm so với thời kỳ trước đó. Nhưng sự bảo hộ vẫn tồn tại đối với nông nghiệp và những ngành công nghiệp bị suy giảm (dệt và may mặc, thực phẩm, da, sắt thép,hóa dầu...) và sự can thiệp của nhà nước có xu hướng gia tăng. Thuế nhập khẩu ưu đãi (tối huệ quốc) tại các nước phát triển đối với hàng công nghiệp từ 40% (bình quân) vào những năm cuối chiến tranh thế giới thứ 2 giảm xuống 6% tại vòng đàm phán Tokyo năm 1987 và dưới 5% sau vòng đàm phán Uruguay năm 1994. Nhưng thuế suất (nhập khẩu) đối với lương thực thực phẩm, da, hàng dệt và may mặc là những mặt hàng xuất khẩu quan trọng của các nước đang phát triển... vẫn được đang duy trì ở mức độ cao, trong khi thuế suất đối với thiết bị, hàng tiêu dùng lâu bền lại tương đối thấp. Điều đó rõ ràng không có lợi cho xuất khẩu của các nước đang phát triển.
Năm 1995, GATT trở thành Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) theo các điều lệ mới, và vòng đàm phán hiện tại mang tên Nghị sự Phát triển Doha (Qatar). Với sự ra đời của WTO, tự do hóa thương mại phát triển về bề rộng và bề sâu. Tổ chức Thương mại Thế giới không phải là sự mở rộng của HĐTQTM (GATT), mà WTO hoàn toàn thay thế GATT và có những khác biệt quan trọng. Là một thể chế, một tổ chức quốc tế thường trực có phạm vi toàn cầu trong lĩnh vực thương mại quốc tế, WTO sẽ thúc đẩy mạnh mẽ hơn quá trình tự do hóa thương mại giữa các nước thành viên tự nguyên tham gia WTO.
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) từ thời điểm ra đời đã xác định rõ mục tiêu thúc đẩy thương mại toàn cầu ngày càng rộng mở và công bằng hơn. Điều này cũng đồng nghĩa rằng, WTO chống lại tất cả mọi dạng thức của chủ nghĩa bảo hộ. Nhưng thể chế thương mại đa biên của WTO cũng không phi lý đến mức ủng hộ cho cả các hoạt động thương mại không công bằng và thiếu lành mạnh. Các biện pháp phòng vệ thương mại (PVTM) là những công cụ chính sách phổ biến nhất mà nhiều nước nhập khẩu trong hệ thống của WTO sử dụng để kiểm soát thương mại quốc tế. Các biện pháp này được quy định trong ba hiệp định riêng biệt của WTO là các Hiệp định thực hiện Điều VI của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 (thường được gọi là Hiệp định Chống bán phá giá); Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng; và Hiệp định về các biện pháp bảo vệ. WTO đưa ra các tiêu chí và yêu cầu rất chi tiết mà theo đó các chính phủ thành viên phải tiến hành điều tra.
So với biện pháp chống bán phá giá (hàng nhập khẩu có giá thấp) và chống trợ cấp (hàng nhập khẩu được quốc gia xuất khẩu trợ giá, nên giá cũng thường thấp), tự vệ thương mại áp dụng đối với dòng hàng hóa nhập khẩu khi chúng thâm nhập ồ ạt và gây tổn hại đến nền sản xuất trong nước, cho dù việc nhập khẩu đó là hợp pháp, không có dấu hiệu vi phạm hay sai trái. Tất cả các biện pháp này đều nhằm một mục tiêu là hạn chế sự thâm nhập của hàng hóa nhập khẩu vào nền kinh tế nội địa, được Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) chấp nhận.
Sự ra đời và phát triển của WTO là một bước tiến vững chắc cho tiến trình tự do hóa thương mại trên quy mô toàn cầu. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là do trình độ phát triển kinh tế không đồng đều, các nước đều duy trì các biện pháp thương mại nhằm bảo hộ nền sản xuất nội địa. Bên cạnh biện pháp bảo hộ bằng thuế quan còn rất nhiều biện pháp phi thuế quan (PTQ) được hiểu là các chính sách thương mại ngoài thuế quan thông thường nhưng có thể có tác động kinh tế lên thương mại hàng hóa quốc tế, làm thay đổi số lượng và/hoặc giá cả của hàng hóa được mua bán.
Nếu như biện pháp thuế quan rất rõ ràng và dễ dự đoán thì các biện pháp PTQ có thể làm nhiễu tín hiệu chỉ dẫn quyết định của người sản xuất và người tiêu dùng, tín hiệu chỉ dẫn việc phân bổ nguồn lực trong nội bộ nền kinh tế, phản ánh không trung thực lợi thế cạnh tranh. Mặc dù về lý thuyết, WTO chỉ thừa nhận thuế quan là công cụ bảo hộ hợp pháp duy nhất nhưng thực tế đã chứng minh rằng các nước không ngừng sử dụng các biện pháp PTQ mới.
Khi một biện pháp PTQ gây cản trở thương mại không biện minh được theo tinh thần và các nguyên tắc của WTO, biện pháp này bị coi là một hàng rào phi thuế quan (Non Tariff Barrier- NTB). Trên thực tế nhiều khi rất khó phân biệt một biện pháp PTQ có phải là một rào cản PTQ hay không. Ngoài ra, một biện pháp PTQ có thể là hợp pháp trong một giai đoạn nhất định nhưng có thể bị coi là một rào cản PTQ vào một giai đoạn khác.
Điều cần lưu ý là thuật ngữ “hàng rào phi thuế quan” hay “rào cản phi thuế quan” tuy được sử dụng rộng rãi nhưng là một thuật ngữ khá mơ hồ và không phải là thuật ngữ chính thống được WTO sử dụng. Các văn bản pháp lý của WTO chỉ sử dụng thuật ngữ “biện pháp phi thuế quan” mà không bao giờ nhắc đến hàng rào PTQ. Đặc biệt thuật ngữ “hàng rào” chỉ được sử dụng duy nhất một lần trong văn bản của WTO, hiệp định “Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại - TBT”. Trong chính hiệp định, thuật ngữ này chỉ sử dụng một lần và không hề được nhắc lại.
Cho đến thời điểm hiện tại, trật tự kinh tế thế giới vẫn được xem là một trật tự hay hệ thống do Mỹ và phương tây thiết lập kể từ sau Thế chiến hai và về cơ bản đây vẫn là thế lực chi phối. Trật tự này bao gồm:
- Thứ nhất, những giá trị mà nó theo đuổi như tự do thương mại, mở cửa để thay đổi, môi trường, nhân quyền. Những giá trị này do Mỹ xây dựng, nên hệ thống này còn được gọi là hệ thống “Made in America”. Và điểm khởi đầu của nó chính là từ Hiệp ước Bretton Woods năm 1944, lập ra định chế Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), nên hệ thống này còn được gọi là trật tự, hay định chế IMF (hay Bretton Woods).
- Thứ hai, các qui tắc và luật lệ như cấm sử dụng chính sách “làm khánh tận láng giềng” trong thương mại, công bằng trong cạnh tranh, cấm ăn cắp bản quyền trí tuệ…
- Thứ ba, trật tự này bao gồm các định chế cơ bản như: i/ Quỹ Tiền tệ Quốc tế với chức năng tạo ổn định tỷ giá và tiền tệ toàn cầu, cung cấp các khoản cho vay đối với những quốc gia nào bị mất cân bằng vĩ mô nhằm thiết lập lại cân bằng. ii/ Ngân hàng Thế giới (WB) có chức năng cung cấp các khoản cho vay dài hạn đối với các quốc gia nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng và tái cấu trúc nền kinh tế. iii/ Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nhằm quản trị thương mại và đầu tư trên toàn cầu. Ngoài ra, cũng có thể kể đến vai trò của Ngân hàng Ổn định Quốc tế (Bank for International Settlements - BIS) được thành lập 1930 có chức năng như ngân hàng trung ương của các ngân hàng trung ương (https://en.wikipedia.org/wiki/Bank_for_International_Settlements, https://www.investopedia.com/terms/b/bis.asp). Cuối cùng, đó là Hiệp hội Viễn thông Tài chính Liên Ngân hàng Toàn cầu (Society for Worldwide Interbank Financial Telecommunication - SWIFT) được thành lập 1973 có chức năng cung cấp dịch vụ viễn thông an toàn, chi phí thấp, cho tất cả các các giao dịch thanh toán trên toàn cầu giúp nó vận hành trơn chu.
Trên bình diện chung, có thể thấy chủ nghĩa bảo hộ đang xuất hiện trở lại và thể hiện rõ ràng hơn từ những tháng đầu năm 2018. Khi nhắc đến quan hệ thương mại quốc tế, thuật ngữ “toàn cầu hóa” được thay bằng các cụm từ như "friendshoring" (đưa sản xuất về các nước thân thiện) hay "de-risking" (giảm thiểu rủi ro).Còn tờ The Economist lại đẻ ra thêm một từ mới "homeland economics" (tạm dịch "kinh tế dân tộc") là bảo hộ mậu dịch, trợ cấp cho sản xuất trong nước và nhà nước can thiệp nhiều hơn trong mọi lĩnh vực.
Mức độ cần thiết và lý do sâu xa dẫn đến việc bảo hộ sản xuất nội địa của từng nước cũng khác nhau, đối tượng cần bảo hộ cũng khác nhau khiến cho các hàng rào phi thuế ngày càng trở nên đa dạng hơn. Có thể sử dụng nhiều biện pháp PTQ để phục vụ một mục tiêu. Mặt khác, một biện pháp PTQ có thể đồng thời phục vụ hiệu quả nhiều mục tiêu khác nhau. Xu hướng chung trong việc sử dụng các biện pháp phi thuế quan để bảo hộ sản xuất trong nước là chuyển từ các biện pháp mang tính chất hạn chế định lượng trực tiếp sang các biện pháp tinh vi hơn như chống bán phá giá (CBPG), chống trợ cấp (CTC), tự vệ (TV), tiêu chuẩn kỹ thuật (TCKT). Ngoài ra, xu hướng sử dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu gắn với yêu cầu tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường và lao động đang nổi lên và được nhiều nước phát triển hậu thuẫn mạnh mẽ.
Thống kê của WTO, hơn 25 năm qua, các nước đã khởi xướng điều tra tổng cộng 6.300 vụ CBPG, 632 vụ CTC và 400 vụ việc TV, trung bình mỗi năm hơn 290 vụ. Các vụ việc điều tra PVTM thường tập trung ở một số quốc gia có pháp luật và thực tiễn áp dụng các biện pháp PVTM đã được xây dựng và phát triển như:Hoa Kỳ, Ca-na-da,Mê-xi-cô,Bra-xin,Ác-hen-ti-na, EU,Nga, Úc, Ấn Độ, Trung Quốc,Thái Lan, Ma-lay-xi-a, In-đô-nê-xi-a, Phi-líp-pin, Hàn Quốc, Nam Phi, Ai Cập.
Toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại được nhiều học giả và nhà kinh tế ủng hộ trong thế kỷ qua. Song đi ngược với xu hướng này, nhiều quốc gia trên thế giới vẫn đang tìm cách áp dụng các biện pháp PTQ tinh vi hơn để tạo nên rào cản thương mại. Các chương trình trợ cấp và chủ nghĩa bảo hộ của các nước công nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản… theo các chuyên gia - đang làm đảo lộn trào lưu tự do hóa thương mại. Sự gia tăng bất ổn và các biện pháp hạn chế thương mại sẽ làm phân mảnh hệ thống thương mại toàn cầu (Phát biểu tại cuộc họp báo ở Singapore hôm 28-10-2022 của Krishna Srinivasan, Giám đốc bộ phận châu Á và Thái Bình Dương của IMF). Xu hướng này có thể gia tăng khi các rào cản thương mại ngày một nhiều hơn (năm 2019, theo IMF, các quốc gia đã áp đặt gần 1.000 hạn chế thương mại, xấp xỉ con số 3.000 vào năm 2022.Còn WTO cho biết, khoảng 3.000 biện pháp hạn chế thương mại đã được áp dụng vào năm 2023 trên khắp thế giới).
Và những vấn đề đặt ra
Ngày nay, tự do hóa thương mại không còn mang nghĩa đơn thuần mua bán giữa các nước - nó còn là sự đổi chác mang tính địa chính trị và đôi lúc phục vụ cho mục đích dân túy ở nhiều nước nữa. Cuộc chơi thương mại ngày càng khốc liệt và bất quy tắc.
Đến nay chúng ta đã ký kết và thực thi 16 FTA. Các FTA này đã giúp hàng hóa Việt Nam thâm nhập vào nhiều thị trường lớn, qua đó thúc đẩy doanh nghiệp sản xuất đổi mới phương thức quản lý, công nghệ, nâng chất lượng và năng lực cạnh tranh... Hiện có 3 FTA đang tiếp tục được đàm phán. Đó là FTA Việt Nam - EFTA (gồm các nước Thụy Sĩ, Na Uy, Iceland, Liechtenstein). Đây là FTA đã khởi động hơn 10 năm qua. Còn trong khuôn khổ ASEAN là FTA ASEAN - Canada được tái khởi động đàm phán tháng 11-2021. Mới đây nhất là Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện (CEPA) Việt Nam - Các tiểu vương quốc Arab Thống nhất (UAE). Đây là FTA quan trọng đang được tích cực đàm phán để có thể ký kết trong thời gian sớm nhất.
Các FTA đã đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn và có quan hệ thương mại với trên 230 thị trường, trong đó có FTA với 60 nền kinh tế, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp (DN) của Việt Nam mở rộng tiếp cận thị trường toàn cầu, là cơ hội để Việt Nam kết nối và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất toàn cầu.
Mức độ cam kết hội nhập kinh tế quốc tế đã chuyển dần từ thấp lên cao, từ hẹp sang rộng, nếu như với các FTA khác, Việt Nam chỉ cam kết thực thi một số lĩnh vực, thì với CPTPP và EVFTA, UKVFTA, Việt Nam cam kết thực thi toàn bộ 21 lĩnh vực từ thuế quan, quy tắc xuất xứ, dịch vụ tài chính, đầu tư… đến mua sắm công, sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường, giải quyết tranh chấp… phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế khu vực và thế giới.
Trong bối cảnh Việt Nam tham gia ngày càng sâu rộng vào các Hiệp định thương mại tự do (FTA), đặc biệt là các FTA thế hệ mới, các vụ việc PVTM gồm chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ ngày càng nhiều hơn với tính chất phức tạp gia tăng. Ở chiều ngược lại, một số ngành sản xuất trong nước cũng phải chịu áp lực từ việc gia tăng nhập khẩu do các tác động mở cửa thị trường và cần đến những công cụ chính sách về PVTM để bảo vệ lợi ích của ngành.
Dù muốn dù không chúng ta cũng phải chuẩn bị cho một giai đoạn mà trong đó vai trò sản xuất hàng gia công cho các nước khác không còn là xu thế chủ đạo nữa. Chúng ta cũng phải chuẩn bị cho một giai đoạn mà hàng rào thuế quan và kỹ thuật được dựng lên khắp nơi trên thế giới. Những diễn biến hiện nay cho thấy thị trường thế giới ngày càng trở nên bất định, khó lường…
Theo số liệu của Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương), số lượng các vụ việc áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại (PVTM) đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam đang tăng nhanh. Nếu giai đoạn năm 2001-2011 chỉ có 50 vụ, thì giai đoạn 2012-2022 đã tăng 3,5 lần lên 172 vụ.
Theo thống kê của Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn), chỉ trong 10 tháng đầu năm 2023, EU đã phát đi 3.900 cảnh báo cho tất cả các nước xuất khẩu nông sản sang thị trường EU. Trong đó Việt Nam có 67 cảnh báo, giảm 5 cảnh báo so với cùng kỳ năm 2022.
Tính đến nay, hàng hóa xuất khẩu của ta đã đối mặt với 37 vụ việc điều tra chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại (PVTM) của nước ngoài, trong đó riêng năm 2023 là 04 vụ việc gồm các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn như pin năng lượng mặt trời, dây cáp nhôm, bánh xe kéo bằng thép, thép không gỉ cán nguội.
Hiện Bộ Công Thương đã cập nhật theo dõi trên 170 mặt hàng, trong đó đưa ra danh sách cảnh báo sớm đối với 18 mặt hàng có nguy cơ bị điều tra áp dụng các biện pháp PVTM.
Năm 2019, Châu Âu đã tiến hành bàn thảo về Thỏa thuận Xanh Châu Âu (European Green Deal - EGD) nhằm hướng đến mục tiêu giảm thiểu sự phát thải khí nhà kính và hạn chế sử dụng tài nguyên thiên nhiên nhưng vẫn đảm bảo về mặt phát triển kinh tế. Thỏa thuận đã được phê duyệt vào năm 2020.
Theo đó, một loạt chính sách có tầm nhìn tới năm 2050 được ban hành có thể giúp EU trở thành một nền kinh tế xanh và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên. Các chính sách và biện pháp chính của thỏa thuận: là Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (Carbon Border Adjustment Mechanism - CBAM); Chiến lược từ Trang trại đến bàn ăn (Farm to Fork); Kế hoạch Hành động kinh tế tuần hoàn (Circular Economy Action Plan) hay Chiến lược đa dạng sinh học đến năm 2030.
Cơ chế điều chỉnh carbon qua biên giới - bộ phận quan trọng nhất trong Thỏa thuận Xanh châu Âu đang trở thành mối quan tâm đặc biệt của các quốc gia và doanh nghiệp. Tháng 12/2022, EU thông báo thực hiện CBAM. Điều chỉnh Biên giới carbon là cơ chế, chứ không phải thuế. Tuy nhiên để thực hiện CBAM (áp dụng từ tháng 10 năm 2023), EU sẽ đánh thuế carbon đối với tất cả hàng hóa được nhập khẩu vào thị trường này, dựa trên cường độ phát thải khí nhà kính trong quy trình sản xuất ở nước sở tại. Ban đầu sẽ áp dụng đối với các hàng hóa nhập khẩu có nguy cơ gây ô nhiễm cao như xi măng, thép, phân bón, nhôm, điện và hydro, là những lĩnh vực chiếm tới 94% lượng khí thải công nghiệp của châu Âu. Cơ chế sẽ được công bố dần dần cho đến cuối năm 2025 và sau đó sẽ được áp dụng đầy đủ vào năm 2026. Với quy định này, các nhà nhập khẩu EU sẽ phải mua giấy chứng nhận, khai báo lượng khí thải có trong các sản phẩm nhập khẩu. Nếu họ có thể cung cấp thông tin đã được xác minh từ các nhà sản xuất bên ngoài EU rằng giá carbon đã được thanh toán trong quá trình sản xuất, thì giá này có thể được khấu trừ vào hóa đơn cuối cùng.
Số lượng Thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) quan tâm đến CBAM ngày càng gia tăng kể từ khi dự thảo về CBAM được công bố lần đầu vào cuối năm 2019. Các Thành viên WTO chỉ trích EU về việc xây dựng CBAM với ý nghĩa là một biện pháp thương mại đơn phương, mà chưa tính đến nguyên tắc “trách nhiệm chung nhưng khác biệt” trong Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu. Họ cũng chất vấn về tính phù hợp của CBAM với các nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN), đối xử quốc gia (NT), các điều khoản về thuế quan, phi thuế quan, ngoại trừ mục tiêu bảo vệ môi trường... trong Hiệp định GATT của WTO. Quan trọng hơn cả, các Thành viên đều thống nhất cho rằng khi đi vào thực hiện, CBAM sẽ tạo ra rào cản thương mại lớn với xuất khẩu từ các nước thứ ba vào khu vực thị trường chung EU, thông qua gia tăng phí tổn trực tiếp (phí mua tín chỉ) và gián tiếp (thủ tục hành chính phức tạp để tuân thủ quy định CBAM).
Tuy nhiên, có thể nói bất chấp sự chỉ trích, phản đối của nhiều nước, EU vẫn sẽ tiếp tục xây dựng CBAM theo đúng tiến trình. Ngày 22/6/2022, Nghị viện châu Âu đã thông qua với đa số phiếu gói văn bản pháp lý quy định về CBAM với một số điều chỉnh đáng chú ý. Các nội dung được xem là “tích cực” đối với các nước ngoài EU, đặc biệt là các nước Đang và Kém phát triển, là việc xác định lộ trình xóa bỏ tín chỉ carbon miễn phí trong nội bộ EU từ năm 2027, hoàn thành vào năm 2032 để đảm bảo hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính (ETS) trong và ngoài EU (CBAM) không mâu thuẫn lẫn nhau. Quy định sẽ sử dụng số tiền tương đương mức thu từ bán tín chỉ CBAM cho mục tiêu hỗ trợ các nước kém phát triển. Điểm gây quan ngại là CBAM sẽ tiếp tục mở rộng phạm vi ra các chủng loại sản phẩm khác, kể cả tính đến hàm lượng carbon phát thải gián tiếp trong đầu vào điện sản xuất, ngoài 5 nhóm sản phẩm ban đầu là sắt thép, sản phẩm lọc dầu, xi măng, hóa chất cơ bản và phân bón. (Còn tiếp)
Vũ Huy Hùng
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT
TS. Phạm Vĩnh Thắng
Học viện Ngân hàng