Ngày 30 tháng 6 năm 2019, Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) đã ký kết và đưa vào thực hiện hiệp định thương mại tự do song phương (EVFTA) từ ngày 1/8/2020. Tuy nhiên, những lợi thế đạt được từ EVFTA có thể bị xói mòn phần nào bởi diễn biến hoạch định chính sách trong khu vực EU, nổi bật là Thỏa thuận Xanh châu Âu. Theo các chuyên gia, Thỏa thuận Xanh châu Âu có khả năng ảnh hưởng đến một số ngành công nghiệp của Việt Nam, tùy thuộc mỗi ngành và các biện pháp cụ thể được đưa ra theo thỏa thuận. Những ngành có thể bị tác động, ảnh hưởng lớn bởi Thỏa thuận này là ngành dệt may và giày dép do EU là thị trường lớn xuất khẩu hàng dệt may và giày dép của Việt Nam. Thỏa thuận Xanh EU, cụ thể là Kế hoạch hành động nền kinh tế tuần hoàn, sẽ yêu cầu các sản phẩm dệt may phải được sản xuất bằng các vật liệu và quy trình thân thiện với môi trường, đồng thời đáp ứng các tiêu chuẩn bền vững và dán nhãn sinh thái nghiêm ngặt.Các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực này sẽ cần phải Xanh hóa (quy trình sản xuất và đầu tư vào công nghệ mới…) để duy trì tính cạnh tranh.
Ngành sắt thép cũng có khả năng bị tác động mạnh do Thỏa thuận Xanh đặt ra mục tiêu giảm sử dụng các vật liệu sử dụng nhiều năng lượng và chuyển sang sử dụng các vật liệu bền vững hơn.
Bao bì phải được làm bằng vật liệu thân thiện với môi trường và có thể tái chế hoàn toàn. Điều này sẽ tác động đến các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất bao bì cũng như các doanh nghiệp sử dụng bao bì cho các sản phẩm xuất khẩu.
Nông sản và thủy sản cũng là lĩnh vực bị ảnh hưởng bởi Thỏa thuận Xanh do EU đặt ra cách tiếp cận nông nghiệp bền vững và thân thiện với môi trường hơn. Các doanh nghiệp Việt Nam phải đáp ứng các tiêu chuẩn mới về thực hành canh tác và sản xuất lương thực bền vững, đồng thời đầu tư vào công nghệ mới và thay đổi quy trình sản xuất để giảm thiểu chất thải và giảm sử dụng hóa chất độc hại. Thỏa thuận cũng đề ra các yêu cầu, bao gồm tính đạo đức, an toàn thực phẩm và nhãn mác cho hàng hóa thủy sản. Từ năm 2025, nông sản muốn xuất khẩu sang EU phải đảm bảo được sản xuất không gây mất rừng. Ngành gỗ và cà phê sẽ bị tác động lớn bởi quy định của EU. Do đó, các quốc gia cần có hệ thống theo dõi để đảm bảo sản phẩm nông sản được sản xuất không có dính dáng gì đến mất rừng trong chuỗi cung ứng.
Ngày 3/3/2023, Ủy ban châu Âu (EU) ban hành Quy định mới số (EU) 2023/466 sửa đổi Phụ lục II, III và V của Quy định (EC) số 396/2005 của Nghị viện và của Hội đồng châu Âu liên quan đến mức dư lượng tối đa (MRL) đối với hoạt chất isoxaben, novaluron và tetraconazole trong hoặc trên một nông sản thực phẩm bao gồm: các nhóm rau, củ, quả tươi và đông lạnh; nhóm các loại hạt, điều, cà phê, chè, nhóm sản phẩm gia vị, ngũ cốc, hạt có dầu và sản phẩm động vật trên cạn, thịt các loại, trứng sữa, mật ong… Mức MRL các hoạt chất trên các loại sản phẩm khác nhau từ 0,01 mg/kg. Tuy nhiên, EU cũng đưa ra mức quy định dư lượng MRL của một trong các hoạt chất trên từ 0,05 mg/kg, 0,07, thậm chí 1,5 mg/kg trong các nhóm sản phẩm như rau, củ, thịt và nội tạng động vật... Năm 2023, EU tập trung sửa đổi rất nhiều các quy định MRL tại Quy định (EC) số 396/2005. Quy định này sẽ có hiệu lực vào ngày 26/9/2023.
Cùng trong ngày 3/3/2023, EU cũng ban hành Quy định mới số (EU) 2023/465 sửa đổi Quy định (EC) số 1881/2006 liên quan đến mức MRL asen tối đa trong một số loại thực phẩm. Cụ thể, quy định mức dư lượng asen đối với gạo, các sản phẩm chế biến từ gạo, thực phẩm dinh dưỡng trẻ em, nước hoa hoa quả, sản phẩm hoa quả cô đặc, muối. Ngưỡng MRL asen dao động từ 0,01 đến 0,15 mg/kg sản phẩm. Quy định này áp dụng trực tiếp trên tất cả các thành viên EU và có hiệu lực từ ngày 26/3/2023.
Trước đó, EU cũng đã ban hành Quy định 2023/174 sửa đổi Quy định 2019/1793 về việc áp dụng tạm thời các biện pháp kiểm soát chính thức và khẩn cấp đối với một số hàng hóa được nhập khẩu vào EU. Cụ thể, quy định sửa đổi một số mặt hàng của Việt Nam như: mì ăn liền có chứa gia vị, bột nêm hoặc nước sốt, quả thanh long sẽ có tần suất kiểm tra thuốc bảo vệ thực vật là 20%; đậu bắp và ớt chuông thuộc giống capsicum vẫn duy trì tần suất kiểm tra là 50%.
Ngày 16 tháng 1 năm 2024, EU đã đăng công báo Quy định thực hiện Quy chế (EU) 2024/286 sửa đổi Quy định thực hiện (EU) 2019/1793 về việc tạm thời tăng cường các biện pháp kiểm soát chính thức và các biện pháp khẩn cấp quản lý nhập khẩu vào Liên minh châu Âu một số hàng hóa từ một số nước thứ ba thực hiện Quy định (EU) 2017/625 và (EC) số 178/2002 của Nghị viện và Hội đồng Châu Âu.Theo đó, các mặt hàng của Việt Nam vào EU sẽ chịu giám sát cửa khẩu là ớt chuông, mỳ ăn liền và sầu riêng với tần suất kiểm tra tương ứng là 50%, 20% và 10%. Đây là lần đầu tiên sầu riêng của Việt Nam xuất khẩu vào EU bị đưa vào diện kiểm tra dư lượng thuốc bảo vệ thực vật tại cửa khẩu với tần suất 10%. Cũng tại quy định này, đậu bắp và thanh long vẫn nằm trong phụ lục II (thêm yêu cầu giấy chứng nhận chất lượng từ Việt Nam) với tần suất kiểm tra tương ứng là 50% và 20% tại cửa khẩu EU.
Theo quy định của EU, cứ 6 tháng 1 lần, Nghị viện châu Âu sẽ họp và xem xét đánh giá tần suất kiểm tra biên giới đối với nông sản, thực phẩm, thức ăn chăn nuôi có nguồn gốc phi động vật của nước thứ ba nhập khẩu vào EU.
Việc EU tăng hay giảm tần suất kiểm tra biên giới đối với mặt hàng nông sản thực phẩm, thức ăn chăn nuôi của các nước thứ ba là hoạt động thường xuyên theo quy định. Không chỉ có nông sản, thực phẩm của Việt Nam, nhiều mặt hàng nông sản của các nước khác cũng áp dụng tương tự.
Hiện nay, không riêng gì thị trường EU, hầu hết các thị trường đều đưa ra cảnh báo dù chỉ một lô hàng vi phạm.
Giải pháp cho thời gian tới
Có thể thấy, Việt Nam đã, đang và sẽ vẫn phải đối mặt với những thách thức to lớn từ những xu hướng mới của bảo hộ mậu dịch, ở mức độ tinh vi, dễ thay đổi và khó lường hơn trước rất nhiều. Đặc biệt, với lĩnh vực nông nghiệp, thực phẩm và một số sản phẩm công nghiệp nhẹ, vốn là thế mạnh của Việt Nam. Hàng rào bảo hộ không những không bị dỡ bỏ mà còn được “tăng cường” sẽ là thách thức lớn đối với xuất khẩu.
Phòng vệ thương mại là lĩnh vực mới với Việt Nam và tương đối phức tạp, cả về pháp lý và yêu cầu, nguồn lực để ứng phó (nếu Hoa Kỳ sử dụng luật về PVTM từ hàng trăm năm nay, thì pháp luật về PVTM tại Việt Nam mới bắt đầu được xây dựng, hình thành từ năm 2005).
1.Về phía Nhà nước
Với mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp chủ động ứng phó với các cuộc điều tra PVTM, chủ động sử dụng công cụ PVTM bảo vệ sản xuất trong nước, 5 trụ cột chính cần thực thi:
- Hoàn thiện khung khổ pháp lý để doanh nghiệp có thể sử dụng công cụ phòng vệ dễ dàng hơn trong bảo vệ sản xuất trong nước.
- Nâng cao năng lực cho đội ngũ làm công tác PVTM ở các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương.
- Tăng cường đào tạo cho các ngành hàng, với từng thị trường cụ thể
- Tăng cường năng lực cho các trường đại học, viện nghiên cứu - nơi đào tạo đội ngũ luật sư, chuyên gia tư vấn pháp lý.
- Tăng cường đối thoại với các đối tác kinh tế, thương mại lớn của Việt Nam, thường xuyên sử dụng biện pháp PVTM; cũng như những đối tác mà Việt Nam nhập khẩu nhiều, nhằm tăng cường vị thế của Việt Nam trong lĩnh vực PVTM.
Để thích ứng với tình hình mới, những điểm đáng lưu ý là :
- Cần đưa nội dung tháo gỡ rào cản thị trường vào các phiên họp của các Ủy ban liên Chính phủ với các nước; chủ động nêu vấn đề rào cản kỹ thuật tại các diễn đàn khu vực (ASEAN, APEC) và đa phương (WTO). Đẩy mạnh việc tham gia và thực hiện các thủ tục về thúc đẩy thuận lợi hóa thương mại như tăng cường ký kết các Thỏa thuận hợp tác hoặc công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn, quy trình kiểm tra giữa các cơ quan chức năng của Việt Nam và các nước đối tác có FTA; giảm bớt các thủ tục hải quan.
- Vai trò của Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, Phòng Công nghiệp và Thương mại (VCCI)… trong việc tổ chức tốt kênh thông tin cho các DN về rào cản thương mại của các nước nhập khẩu là hết sức quan trọng. Trước xu thế sử dụng các biện pháp PVTM ngày càng gia tăng, do đó công tác cảnh báo sớm và tuyên truyền, thông tin về PVTM đóng vai trò hết sức quan trọng, cấp thiết. Để nâng cao hiệu quả công tác này, cần tăng cường phổ biến thông tin kịp thời về PVTM; đẩy mạnh tuyên truyền, cung cấp thông tin cơ bản, chuyên sâu, chính xác có tính hệ thống về PVTM cho cơ quan báo chí.
Cần tổ chức thường xuyên các lớp bồi dưỡng, tập huấn cho các DN cũng như tổ chức các kênh thông tin.Theo đó, việc hỗ trợ các DN về thông tin (hướng tận dụng và cách tận dụng ưu đãi FTA, nhất là về quy tắc xuất xứ và biện pháp để đáp ứng quy tắc xuất xứ) và cách phòng tránh, xử lý các tranh chấp thương mại như kiện bán phá giá; nâng cao nhận thức về PVTM đối với các hiệp hội, doanh nghiệp.Tập trung giải quyết có hiệu quả các vụ kiện chống bán phá giá,chống trợ cấp mà các nước đang tiến hành đối với hàng xuất khẩu.
Cục Phòng vệ thương mại, Bộ Công Thương cần tiếp tục duy trì hệ thống cảnh báo sớm. Thông qua các hoạt động và dữ liệu theo dõi tình hình xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường nước ngoài, có những cảnh báo trước đối với các doanh nghiệp về những mặt hàng nào, những nhóm hàng nào có khả năng, những thị trường nào có khả năng bị sẽ tiến hành điều tra PVTM với hàng hóa của Việt Nam trong tương lai.
Nâng cấp Hệ thống cảnh báo sớm để đánh giá những mặt hàng xuất khẩu có nguy cơ bị áp dụng biện pháp PVTM, từ đó giúp các DN chủ động điều chỉnh kế hoạch sản xuất và xuất khẩu của mình và có biện pháp ứng phó kịp thời để hạn chế việc vướng phải các vụ kiện CBPG.
Phối hợp chặt chẽ và đồng hành cùng với DN trong quá trình xử lý các vụ kiện PVTM ngay từ giai đoạn đầu khi cơ quan điều tra của nước nhập khẩu tiếp nhận đơn kiện cho đến khi khởi xướng điều tra, trả lời câu hỏi điều tra, thẩm tra tại chỗ, điều trần công khai và ra phán quyết. Đối với từng vụ kiện cụ thể, Bộ Công Thương tư vấn cho các DN xây dựng chiến lược ứng phó, cách thức trả lời các câu hỏi điều tra và cách thức hợp tác với cơ quan điều tra của nước nhập khẩu.
Theo dõi chặt chẽ quy trình điều tra của nước nhập khẩu để đảm bảo các bước trong quy trình điều tra tuân thủ đầy đủ các quy định của WTO, cam kết trong các điều ước quốc tế và nội luật của nước nhập khẩu. Trong trường hợp phát hiện những điểm không tuân thủ, Bộ Công Thương đại diện cho Chính phủ Việt Nam tham vấn và yêu cầu cơ quan điều tra của nước nhập khẩu kịp thời có sự điều chỉnh để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp Việt Nam. Nếu những điểm không tuân thủ này không được điều chỉnh gây ảnh hưởng bất lợi đối với các doanh nghiệp Việt Nam, Bộ Công Thương sẽ xem xét kiến nghị Chính phủ cân nhắc đưa biện pháp CBPG mà nước nhập khẩu áp dụng ra các cơ chế giải quyết tranh chấp phù hợp, trong đó có cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO.
- Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, cảnh báo đối với các biện pháp PVTM áp dụng lên hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Lựa chọn một số mặt hàng tiềm năng để thiết kế và thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại riêng cho những mặt hàng này vào các thị trường.
- Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn của Việt Nam theo hướng tương thích với hệ thống tiêu chuẩn của các nước nhập khẩu, hoàn thiện hơn cơ chế kiểm tra, giám sát đối với các DN trong các khâu nuôi trồng và chế biến sản phẩm.
Cần xem xét và xây dựng các tiêu chuẩn mới theo hướng hài hoà với tiêu chuẩn quốc tế hoặc khu vực nhằm thuận lợi hoá thương mại. Bên cạnh Hiệp định TBT, Việt Nam cần phải tuân thủ nghĩa vụ của các điều ước quốc tế trong Hiệp định SPS về vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật.
- Tăng cường hỗ trợ các DN xuất khẩu thông qua các chính sách ưu đãi về tín dụng cho đầu tư công nghệ xanh, công nghệ sạch. Theo đó, cần hỗ trợ về vốn đầu tư bảo vệ môi trường cho các DN có quy mô xuất khẩu lớn, có ảnh hưởng quyết định đến thị phần xuất khẩu của nước ta, giúp tăng cường năng lực của các tập đoàn trong việc vượt qua các rào cản ngày càng phức tạp hiện nay.
- Đẩy mạnh sự phát triển của thị trường dịch vụ môi trường nhằm hỗ trợ cho các DN trong khâu kỹ thuật xử lý ô nhiễm môi trường
Cần mở rộng mạng lưới dịch vụ môi trường để kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các DN, tạo điều kiện cho DN tiếp cận nhanh chóng và có hiệu quả các dịch vụ môi trường. Nên chăng ở các vùng, các trung tâm xuất khẩu lớn như đồng bằng sông Cửu long, khu vực Tây Nguyên cần thành lập các trung tâm dịch vụ môi trường để kịp thời xử lý tại chỗ và đáp ứng nhu cầu rất lớn của các DN.
Song song với việc làm trên, cần nhanh chóng triển khai áp dụng các hệ thống quản lý môi trường như ISO 14.000, HACCP, thực hiện quản lý tốt (GMP), thực tiễn nuôi trồng tốt (GAP).
2. Về phía doanh nghiệp
Nâng cao nhận thức về nỗ lực giảm phát thải carbon và xây dựng hệ thống hồ sơ liên quan cần tiếp tục cải thiện, để không bị động khi CBAM đi vào thực hiện đầy đủ từ năm 2027.Theo đó cần:
- Cập nhật thông tin về những diễn biến mới nhất trong Thỏa thuận Xanh châu Âu và bất kỳ quy định, chính sách, chiến lược hay kế hoạch mới nào nhằm thực hiện Thỏa thuận này;
- Tiến hành đánh giá tác động,xác định lĩnh vực nào có thể cần được cải thiện để đáp ứng các tiêu chuẩn bền vững mới;
- Áp dụng các biện pháp bền vững và thân thiện với môi trường hơn,tăng hiệu quả sử dụng năng lượng và sử dụng vật liệu tái chế, thực hiện các bước để giảm khí thải carbon trong quá trình sản xuất;
- Điều chỉnh chiến lược chuyển từ mô hình sản xuất và xuất khẩu chỉ tập trung vào sản lượng sang mô hình chú trọng tới yếu tố môi trường và phát triển bền vững, chuyển đổi số và áp dụng các công nghệ mới trong hoạt động sản xuất. Trong chiến lược kinh doanh của DN cần được thể hiện rõ kế hoạch bảo vệ môi trường, dành cho nó một vị trí quan trọng với nguồn kinh phí hợp lý. DN cần chủ động lập kế hoạch về các hạng mục cần đầu tư, kinh phí cần thiết, lộ trình thực hiện một cách hợp lý nhằm đưa nhiệm vụ BVMT trở thành hoạt động có kế hoạch, đáp ứng yêu cầu cả trước mắt và lâu dài cho hoạt động xuất khẩu.
- Gia tăng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển để tạo ra các công nghệ và sản phẩm mới đáp ứng các tiêu chuẩn bền vững do Thỏa thuận xanh châu Âu đặt ra.
Các DN nên coi các nước nhập khẩu đang áp dụng các biện pháp phòng vệ đối với hàng hóa của mình chỉ là một hình thức rủi ro trong thương mại. Trong kế hoạch kinh doanh, các DN cần đưa nội dung này vào quản lý như các rủi ro thường gặp khác trong quá trình phát triển thị trường.Khi hàng hóa của mình bị khởi kiện, các DN nên tích cực, chủ động trong quá trình điều tra để hạn chế tới mức thấp nhất những tổn thất do vụ kiện gây ra. Ngoài ra, DN cũng cần thường xuyên chủ động theo dõi thị trường xem hàng hóa của mình có nguy cơ bị bán phá giá hay không,để từ đó có những điều chỉnh thích hợp hay có những chuẩn bị khi đối phó với các vụ kiện.
Việc phụ thuộc quá nhiều vào một thị trường sẽ khiến doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam dễ bị “dính đòn” kiện bán phá giá do các nước tìm cách cân bằng cán cân thương mại bằng cách dựng lên các hàng rào kỹ thuật. Việc tuyên truyền, xây dựng và cập nhật cơ sở dữ liệu về thương mại liên quan đến sản phẩm, thu thập thông tin về ngành sản xuất ở nội địa để cảnh báo nguy cơ cần thực hiện thường xuyên, liên tục.
Các doanh nghiệp nên trang bị cho mình những kiến thức cơ bản về pháp luật PVTM, đặc biệt là các quy định pháp luật về PVTM của các thị trường đang và sẽ xuất khẩu, dành một nguồn lực để nghiên cứu về pháp luật PVTM của thị trường đó. Xây dựng chiến lược xuất khẩu theo hướng đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, tránh phát triển quá nóng một thị trường, tăng cường cạnh tranh bằng chất lượng và hạn chế việc cạnh tranh bằng hàng giá rẻ; chuẩn bị nguồn lực để đối phó với các nguy cơ kiện PVTM có thể xảy ra bất kỳ lúc nào; đảm bảo chế độ ghi chép kế toán rõ ràng, tuân thủ các tiêu chuẩn kế toán quốc tế.
Nếu trong trường hợp vướng vào một điều tra liên quan đến PVTM, doanh nghiệp cũng cần chủ động tham gia trả lời các câu hỏi của bên điều tra, chuẩn bị đủ hồ sơ tài liệu theo đúng yêu cầu.
Ngoài ra, cần xây dựng hệ thống quản trị tiên tiến, hiện đại, lưu trữ hồ sơ, chứng từ đầy đủ và rõ ràng; có một bộ phận pháp chế, nghiên cứu, nắm rõ các quy định về thương mại, PVTM quốc tế…
Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo tổng kết của Bộ Công Thương 2010 - 2023
2. Tư liệu của Ban Chỉ đạo 35 Bộ Công Thương
Vũ Huy Hùng
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT
TS. Phạm Vĩnh Thắng
Học viện Ngân hàng