Sau hơn 35 năm đổi mới, trên bình diện cả nước nói chung và nông thôn miền núi, vùng cao, biên giới nói riêng, thương mại, thị trường đã có bước phát triển, gắn kết với thị trường cả nước. Với những thành tựu đạt được trong phát triển sản xuất nông nghiệp và xu hướng gia tăng việc làm, thu nhập của dân cư đã từng bước được cải thiện.
Tốc độ tăng trưởng của tổng cầu về hàng hóa tiêu dùng trên thị trường đã tăng nhanh, bình quân 20,73%/năm trong giai đoạn 2010 - 2021 do sự cải thiện về thu nhập bình quân đầu người (tăng 18,51%/năm) và xu hướng tăng chi mua hàng hóa (từ 61,9% lên 70,6% tổng thu nhập), giảm tỷ lệ tự cấp, tự túc (từ 14,8% còn 12,6% tổng chi tiêu) của người dân nông thôn cũng như các biện pháp kích cầu của Chính phủ và các Bộ, Ngành.
Bắc trung bộ và Duyên hải miền Trung là vùng miền núi trọng điểm có tỷ trọng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng chiếm tỷ trọng cao so với các vùng khác (16,2 %). Tây Nguyên và Trung du và miền núi phía Bắc chiếm tỷ trọng thấp (4,5-5,0%).
Cơ sở hạ tầng thương mại trên các địa bàn miền núi trọng điểm từng bước được nâng cấp, cải tạo, xây mới, với loại hình ngày càng đa dạng đã góp phần “khỏa lấp cái nghèo”, làm phong phú thêm bộ mặt thương mại và thị trường miền núi, vùng cao, biên giới.
Giữa các vùng miền núi trọng điểm, so với tổng số chợ hiện có trên địa bàn cả nước, tỷ trọng và số chợ tính trên 1000 dân vùng Bắc trung bộ và Duyên hải miền Trung vẫn là vùng đứng đầu 28,1 % và 11,9. Tây Nguyên là vùng có tỷ lệ thấp nhất (4,5% và 6,6).
Lãnh thổ nước ta trải dài trên nhiều vĩ tuyến, bề ngang hẹp, địa hình phức tạp, mang đậm nét của sự phân dị sâu sắc về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội. Ở các vùng có đồng bào dân tộc thiểu số, tỷ suất hàng hoá nhỏ, thu nhập thấp, hầu hết chưa có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Trên các dải núi cao, vùng biên giới từ Bắc vào Nam, nhiều nơi sản xuất vẫn mang tính chất kinh tế tự nhiên. Những đặc điểm trên đã có ảnh hưởng, tác động lớn đến “công cuộc” xoá đói, giảm nghèo đang được thực hiện cũng như việc phát triển và làm thay đổi bộ mặt thương mại và thị trường.
Thương mại mới phát triển sôi động ở các đô thị trung tâm nhưng phát triển chậm ở các khu vực nông thôn, đặc biệt là ở khu vực miền núi, hải đảo, vùng sâu vùng xa.
Số người kinh doanh buôn bán, dịch vụ tăng nhanh nhưng mang tính chất tự phát, phân tán, quy mô nhỏ, vốn ít, mua bán qua nhiều tầng nấc trung gian. Chưa thiết lập được mối liên hệ lâu dài giữa sản xuất với lưu thông, giữa bán buôn và bán lẻ theo những kênh lưu thông hợp lý, ổn định, đặc biệt là việc bán vật tư nông nghiệp, mua nông sản, thực phẩm để tạo điều kiện thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hoá.
Nếu nhìn toàn cảnh và phân tích thực trạng thị trường ở các khu vực, vùng sâu, vùng xa thì có thể nói thị trường nông thôn, miền núi (TTNTMN) nước ta vẫn là một thị trường nghèo với sức mua bình quân đầu người khá thấp .
Khu vực miền núi - theo báo cáo của Ủy ban Dân tộc, thu nhập thực tế bình quân một người dân tộc thiểu số khoảng 1,1 đến 1,2 triệu đồng/tháng, tương đương với 13-14 triệu đồng một năm. Như vậy, mức thu nhập của khu vực đồng bào dân tộc thiểu số hiện mới chỉ bằng 1/5 mức thu nhập chung cả nước.
Hiện vẫn còn gần 1 triệu hộ gia đình nghèo, chiếm 20% tổng dân số. Riêng các huyện nghèo, tỷ lệ nghèo bình quân khoảng 45%. Một số huyện miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, miền núi duyên hải miền Trung, Tây Nam Bộ là những nơi có tỷ lệ hộ nghèo cao (trên 50%).
Người dân nông thôn miền núi đang sống trong tình trạng còn bất bình đẳng với người dân đô thị. Khi tình trạng này còn tồn tại thì bất kể có chính sách gì, hiện tượng du canh du cư và dòng người tiếp tục đổ về thành phố sẽ là bất khả kháng.
Mặc dù tỷ lệ lực lượng lao động trong nông nghiệp giảm đi nhưng tỷ lệ người nghèo lại tăng lên. Thực tế này chứng minh giả thiết về sự gia tăng bất bình đẳng của Kuznets (Nhà kinh tế Simon Kuznets - 1955) trong một nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam khi mà người nghèo chủ yếu tập trung trong lĩnh vực nông nghiệp và thu nhập của bộ phận làm việc trong khu vực phi nông nghiệp cao hơn ở khu vực nông nghiệp.
Mức chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người/tháng vẫn có xu hướng tăng, chiếm tỷ trọng cao trong tổng chi tiêu (91,9 đến 93,4%). Trung du - miền núi phía Bắc và Bắc trung bộ - Duyên hải miền Trung là hai địa bàn có tỷ trọng chi tiêu cho đời sống cao nhất (tương ứng là 93,4 và 93,0 %). Khoản chi tiêu khác chiếm tỷ trọng thấp (dao động từ 6,6 đến 8,1%). Quỹ mua nhỏ, mang tính phân tán, nhìn chung thu nhập chưa đạt đến mức đủ lớn làm thay đổi về chất của TTNTMN hiện nay.
Tái cơ cấu nông nghiệp chưa chạm đến doanh nhân, doanh nghiệp (DN). Nhiều chính sách khuyến khích được ban hành, nhưng tới nay tỉ lệ doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn còn thấp. Trong khi đó, nếu không có doanh nghiệp thì không thể đưa nông nghiệp tiến lên hiện đại.
“Chuỗi giá trị” hay “liên kết bốn nhà” chưa chạm đến phần lõi thực tế. Tư duy của các chương trình phát triển nông nghiệp hay nông thôn mới đang tiếp cận ở một góc tương đối hẹp và theo đó, chính sách mới chỉ giới hạn ở các khoản hỗ trợ cho sản xuất và nặng về trợ cấp. Với hiểu biết về thị trường, kiến thức và kỹ năng về quản lý, chỉ có doanh nghiệp mới có đủ năng lực để “cuốn” chuỗi giá trị nông nghiệp đi lên.
Trong bối cảnh nông nghiệp hội nhập và cạnh tranh đã thay đổi nhanh chóng, tiêu thụ được sản phẩm với giá bao nhiêu, trở thành bài toán cốt yếu. Nông thôn, trong một giai đoạn dài vẫn bị xem như đối tượng “xóa đói giảm nghèo” chứ chưa phải là thế mạnh, động lực phát triển của đất nước.
Các hộ nông dân đã và đang phải chịu hai sức ép lớn: Bám chặt lấy ruộng đất để sản xuất nông nghiệp vốn đã ít lại càng giảm nhanh do sự gia tăng tăng dân số nông nghiệp và khuynh hướng đô thị hoá, công nghiệp hoá tăng nhanh, càng thúc đẩy họ xuống những bậc thấp hơn của nấc thang thu nhập giữa các nhóm dân cư trong xã hội. Khuynh hướng tự cấp, tự túc không những không được khắc phục mà ngược lại càng được củng cố thêm, cộng với tư tưởng phát triển nông nghiệp truyền thống đã ngự trị lâu dài, mang tính phổ biến trong mọi vùng nông thôn sẽ là một trong những tác nhân chủ yếu kìm hãm sự phát triển thị trường nông thôn miền núi. Kết quả là TTNTMN đang có khuynh hướng bị khu vực hoá với một số vùng hết sức khó khăn, có nơi thậm chí chưa có những tiền đề cần thiết cho kinh tế hàng hoá. Thị trường miền núi - vùng cao - biên giới, nơi tập trung sự yếu kém sơ khai của nền thương mại nhỏ đang trong giai đoạn quá độ đi lên sản xuất hàng hoá và vẫn xem là bộ phận kém phát triển nhất của thị trường cả nước.
Kết cấu hạ tầng thương mại thiếu đồng bộ, tính liên kết trong và giữa các doanh nghiệp với nhau còn kém, đại bộ phận doanh nghiệp thương mại nhỏ bé trong điều kiện nguồn vốn lại hạn hẹp. Khả năng tích tụ và tập trung các nguồn lực chưa bảo đảm đủ sức để cạnh tranh và hợp tác.
Phương thức kinh doanh thiếu tính chuyên nghiệp, trình độ đội ngũ quản lý chưa bắt kịp yêu cầu phát triển thương mại theo xu hướng hiện đại và tiến trình hội nhập quốc tế.
Mạng lưới thương mại bán lẻ (chợ, siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi, chuyên doanh...) tăng nhanh nhưng phân bố không đều, tập trung chủ yếu và phát triển mạnh ở các thành phố, thị xã,thị trấn, thị tứ. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành thương mại (đặc biệt là mạng lưới chợ) do xây dựng từ lâu, đã xuống cấp, cần được nâng cấp và xây dựng lại. Chợ lán, tạm chủ yếu ở khu vực nông thôn, tại các địa bàn không thuộc diện được hỗ trợ đầu tư từ ngân sách trong khi người dân và doanh nghiệp không có khả năng hoặc không muốn đầu tư vì không có lợi nhuận. Tỷ lệ chợ bán kiên cố, chợ lán tạm khá cao (trên 70%), cơ sở vật chất kỹ thuật còn nhiều hạn chế, trong khi nhu cầu mua bán, trao đổi của người dân ngày một tăng.
Sau hơn 35 năm thực hiện đổi mới trong nông nghiệp, tuy còn nghèo nhưng trong nông thôn đã có mức tích luỹ đáng kể, nhưng trên thực tế đại bộ phận khoản để dành này đã bị hút vào việc xây dựng, cải tạo nhà ở, mua sắm đồ dùng, phần dành cho tái sản xuất mở rộng là còn thấp. Như vậy ngay trong nông thôn, công nghiệp, khu vực đổi mới sớm nhất, cởi mở nhất thì hệ thống thể chế và chính sách cũng chưa đủ sức cuốn hút các chủ thể kinh doanh thực sự “tiết kiệm” để ưu tiên đầu tư cho phát triển.
Từ nay đến năm 2025, nếu xác định chiến lược chung của nền kinh tế nước ta là “hướng về xuất khẩu” thì kinh tế nông nghiệp miền núi Việt Nam sẽ xuất khẩu cái gì ra thị trường thế giới và khu vực? Liệu nông nghiệp miền núi có những con đường riêng của mình để đi vào thị trường nông sản thế giới mà ta có lợi thế?
Là khu vực rộng lớn, nông thôn, miền núi Việt Nam là một địa bàn chiến lược, có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước. Trong bối cảnh ấy, TTNTMN có vị trí trung tâm và là thị trường chiến lược trong hệ thống thị trường nội địa thống nhất ở một quốc gia mà đa phần dân chúng là nông dân. Như vậy việc tổ chức tốt lưu thông hàng hóa nhằm tạo ra những tiền đề bên trong cho sản xuất và phân công lao động trong nông nghiệp theo hướng mở rộng các ngành nghề chế biến dịch vụ bên cạnh sản xuất nông nghiệp, đồng thời tạo ra các tiền đề bên ngoài (nhất là mở rộng thị trường xuất khẩu) để đưa sản xuất hàng hoá ở nông thôn miền núi lên qui mô lớn, tiếp cận với thị trường thế giới là việc làm cấp bách.
Thị trường nói chung và TTNTMN nói riêng là chiếc “phong vũ biểu” của đời sống kinh tế - xã hội, nơi phản ánh tập trung sự đúng đắn hoặc sai sót của các chính sách một cách nhanh nhạy nhất. Phát triển TTNTMN không chỉ là tác nhân kích thích sản xuất hàng hoá, nâng cao dân trí, góp phần tạo tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế mà còn là cơ sở, chỗ đứng vững bền để mở rộng kinh tế đối ngoại.
Xu thế của một xã hội phát triển là giảm cơ cấu về mặt tương đối của nông nghiệp trong nền kinh tế, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Muốn như vậy, phải có sự dịch chuyển lao động. Sự dịch chuyển này bằng hai cách: hoặc là dịch chuyển tuyệt đối, tức là đưa về các khu công nghiệp, đưa đi xuất khẩu lao động, đưa về thành phố - quy luật không thể tránh khỏi; thứ hai, dịch chuyển tại chỗ, nghĩa là đưa công nghiệp về nông thôn, phát triển làng nghề... Vấn đề là đối phó với sự dịch chuyển này như thế nào. Đây là một xu thế không thể nào đảo ngược được. Nhà nước cần đầu tư cho đào tạo nghề trước khi diễn ra sự dịch chuyển đó.
Việc tạo ra một khối lượng thặng dư nông nghiệp sẽ là bước đi cần thiết để cung cấp nguồn tài chính nhằm giải quyết những vấn đề lâu dài hơn. Tốc độ phát triển trong tương lai của Việt Nam không những phụ thuộc vào sự thành công trong việc tạo ra thặng dư nông nghiệp mà còn phụ thuộc vào thặng dư đó được đầu tư một cách khôn ngoan và có lợi như thế nào. Như vậy phải có một chiến lược ngắn hạn và tạm gác nhiều vấn đề phải giải quyết lâu dài.
Với quan điểm như vậy thì định hướng và những giải pháp cơ bản cần hướng tới là:
- Phát triển đa dạng các loại hình thương mại trên địa bàn nhằm đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu tiêu dùng, vật tư phục vụ sản xuất cho nhân dân. Đồng thời, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Bên cạnh việc tập trung củng cố, nâng cấp, phát triển loại hình chợ truyền thống, khuyến khích phát triển cơ sở hạ tầng thương mại khác như siêu thị mini, cửa hàng tiện lợi/cửa hàng bách hóa…
- Các hoạt động kinh doanh, dịch vụ thương mại bám sát việc sản xuất hàng hoá ở các vùng sản xuất chuyên canh cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi, chế biến... Tại các khu thương mại dịch vụ trên địa bàn các huyện, phát triển các cơ sở thu mua, phân loại, sơ chế, đóng gói, thu gom hàng hoá từ các hộ sản xuất cung cấp cho các nhà máy chế biến hoặc các doanh nghiệp lớn.
- Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp thương mại phát triển hệ thống cửa hàng để trở thành kênh phân phối chủ yếu hàng công nghiệp tiêu dùng ở thị trường nông thôn.
- Mở rộng và hoàn thiện mạng lưới chợ tại các trung tâm cụm xã, xã và các khu dân cư tập trung.
- Nâng cấp mạng lưới chợ bán lẻ ở địa bàn các xã, khuyến khích thương nhân kinh doanh trên chợ thành lập các liên minh mua bán hàng hoá; lấy chợ làm hạt nhân để phát triển các cửa hàng chuyên doanh, tổng hợp xung quanh khu vực chợ, hình thành khu thương mại - dịch vụ tổng hợp.
- Phát triển thị trường nông thôn miền núi gắn với việc tổ chức tốt mạng lưới chợ cụm xã và các khu thương mại - dịch vụ tại các trung tâm dân cư, vừa đảm bảo kinh doanh và phục vụ hàng hoá tiêu dùng, vừa kết hợp hoạt động thương mại với giao lưu văn hóa của nhân dân. Tổ chức thị trường có sự kết hợp chặt chẽ với chính sách bảo trợ, bảo hiểm sản xuất nông nghiệp để tạo điều kiện phát triển các vùng sản xuất chuyên canh, phát triển kinh tế hộ và kinh tế trang trại.
- Kết hợp với nghiên cứu cơ cấu lại kinh tế vùng và liên vùng để xây dựng và triển khai thực hiện các đề án phát triển một số chuỗi cung ứng như chuỗi cung ứng rau quả, thịt gia súc (vùng Tây Bắc); chuỗi cung ứng thịt gà (vùng Trung du và Miền núi phía Bắc); chuỗi cung ứng thịt lợn (vùng Bắc Trung bộ); chuỗi cung ứng hải sản (vùng Nam Trung bộ); chuỗi cung ứng hoa (Lâm Đồng);
- Nghiên cứu đưa nội dung quản lý và phát triển hạ tầng thương mại trong đó có chợ vào nội dung sửa đổi Luật Thương mại 2005; tạo căn cứ pháp lý để Chính phủ ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành những điều khoản liên quan đến phát triển và quản lý chợ.
- Thực hiện các đề án hỗ trợ đào tạo nâng cao năng lực quản trị kinh doanh cho các đối tượng là cán bộ quản lý chợ, cán bộ hợp tác xã thương mại, các hộ kinh doanh. Mở rộng hình thức đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ cán bộ quản lý thương mại.
Trong thời kỳ 2023 - 2030, không gian phát triển thị trường ở nông thôn sẽ tiếp tục có nhiều chuyển biến mạnh mẽ dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa. Phương hướng tổ chức không gian được xác định như sau:
- Một là, lấy đơn vị thôn, xóm, làng, bản làm không gian cơ sở để phát triển mạng lưới trên địa bàn nông thôn. Trong không gian đó sẽ chủ yếu tập trung phát triển các cơ sở bán lẻ những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu cho nhu cầu ăn uống và đồ dùng cá nhân.
- Hai là, lấy các trục giao thông liên thôn, liên xã có điều kiện và tiềm năng phát triển thương mại, nhất là đối với các thôn, xã ở xa khu vực thị trấn huyện lỵ để hình thành các trục thương mại đáp ứng nhu cầu tiêu thụ hàng hóa nông sản và nhu cầu mua hàng hóa tiêu dùng của dân cư nông thôn. Tại các trục này có thể kết hợp giữa phát triển chợ và dãy cửa hàng, hoặc phát triển các điểm thu mua, bán lẻ hàng hóa. Tại các tuyến trục này có thể phát triển các loại cửa hàng có qui mô lớn hơn so với tại các thôn, xóm. Các mặt hàng tiêu dùng có thể mở rộng sang các nhóm hàng may mặc, đồ dùng gia đình, phương tiện đi lại, phương tiện nghe nhìn,…
- Ba là, ngoài địa bàn thị trấn huyện lỵ, trên địa bàn các huyện sẽ tiếp tục phát triển các khu vực thị tứ (hoặc có điều kiện trở thành thị tứ) trở thành các điểm sáng trên thị trường nông thôn cả về tiêu thụ sản phẩm (nông sản và sản phẩm làng nghề) và bán lẻ hàng tiêu dùng. Kết hợp giữa phát triển thị trường bán lẻ với phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm trên địa bàn nông thôn, nhất là tiêu thụ nông sản. Trong đó, tại các vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung sẽ phát triển các khu vực bán lẻ tương đối tập trung với nhiều loại hình đa dạng. Các khu vực này có thể tương đối tách rời, hoặc liền kề với khu vực xây dựng các chợ đầu mối thu mua, phát luồng bán buôn nông sản và vật tư nông nghiệp. Đối với những vùng sản xuất nông sản chưa phát triển, chủ yếu phát triển chợ vừa phục vụ tiêu thụ nông sản vừa bán lẻ hàng tiêu dùng, do tiêu thụ nộng sản ở khu vực này cũng chủ yếu để phục cho tiêu dùng của dân cư trong vùng.
Cơ sở hạ tầng nông thôn nói chung, hạ tầng thương mại nói riêng còn rất thiếu và yếu. Trên TTNTMN hiện nay vẫn tồn tại phổ biến các loại hình bán lẻ truyền thống (chợ, cửa hàng tư nhân). Phần lớn chợ nông thôn có qui mô nhỏ, cơ sở vật chất - kỹ thuật lạc hậu, nghèo nàn, số chợ tạm còn nhiều; số chợ hoạt động kém, hoặc không hiệu quả. Loại hình cửa hàng tự chọn chiếm 1,9% và siêu thị mới chỉ chiếm 0,42% số lượng cơ sở bán lẻ. Hơn nữa, qui mô của các cửa hàng bán lẻ phổ biến là qui mô hộ gia đình, sử dụng ít lao động và thiếu tính chuyên nghiệp. Việc sửa đổi, bổ sung chính sách khuyến khích, ưu đãi và hỗ trợ phát triển hạ tầng thương mại ở địa bàn nông thôn là rất cần thiết, theo đó:
- Ngoài chợ hạng 1 và trung tâm triển lãm, Nhà nước cần xem xét bổ sung các dự án đầu tư hạ tầng thương mại chủ yếu khác (kho, trung tâm logistic) vào danh mục được hưởng ưu đãi đầu tư theo qui định tại Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư.
- Các doanh nghiệp đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thương mại ở nông thôn cần được hưởng các chính sách khuyến khích đầu tư như các dự án về nông nghiệp theo Nghị định 61/2010/NĐ-CP về chính sách khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.
- Áp dụng chính sách giảm thuế thu nhập cho các doanh nghiệp (DN) mở rộng cơ sở kinh doanh trực thuộc ở địa bàn nông thôn hoặc sử dụng các hợp tác xã (HTX), hộ kinh doanh (ở mức độ nhất định) trên địa bàn nông thôn làm đại lý mua hàng nông sản và bán vật tư, máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp. Mức giảm thuế nhiều hay ít tuỳ thuộc vào số cơ sở kinh doanh tăng thêm, số hợp tác xã và hộ kinh doanh tham gia vào hệ thống phân phối của DN với tư cách đại lý. Thời hạn áp dụng chính sách giảm thuế thu nhập DN có thể kéo dài trong thời gian 5 năm (kể từ ngày hoạt động) áp dụng đối với các DN hoặc HTX quản lý kinh doanh chợ ở địa bàn xã.
- Áp dụng chính sách miễn thuế thu nhập DN cho các HTX đối với phần thu nhập từ các dịch vụ phục vụ xã viên (cung ứng vật tư phục vụ sản xuất và tiêu thụ nông sản hàng hoá cho các hộ nông dân là xã viên HTX). Các hoạt động giao dịch giữa xã viên HTX và HTX không bị đánh thuế VAT. Đồng thời, cần tránh đánh thuế trùng lắp (thuế thu nhập DN và thuế thu nhập cá nhân) đối với HTX và xã viên HTX.
- Hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh, là đại lý mua hàng nông sản và đại lý bán vật tư sản xuất nông nghiệp của các DN thuộc các thành phần kinh tế, HTX, Liên hiệp HTX... được xem xét giảm thuế thu nhập cá nhân hàng năm. Mức giảm cụ thể căn cứ vào số lượng hàng nông sản được tiêu thụ và số vật tư cung ứng cho nông dân (có chứng nhận của Uỷ ban nhân dân xã). Các hộ kinh doanh tự nguyện đăng ký thành lập doanh nghiệp theo qui định của Luật DN hoặc thực hiện phương thức nhượng quyền thương mại được xem xét giảm thuế thu nhập cá nhân.
Đối với nông thôn miền núi,vấn đề lớn không chỉ là tìm giải pháp tăng nhanh tốc độ phát triển của các ngành ngoài nông nghiệp hiện có thường được gọi là ngành nghề truyền thống mà hướng quan trọng hơn là phải bằng nhiều giải pháp để mở rộng các ngành nghề chưa phải truyền thống cả về chủng loại cũng như qui mô của nó. Đây thực sự là một vấn đề rất khó khăn đối với hầu hết các vùng nông thôn Việt Nam, không nói đến 4 triệu hộ sống ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa mà ngày cả vùng đồng bằng, vùng ven thị cũng vậy.
Song song với sự phát triển các cụm công nghiệp, cần tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh công nghiệp và dịch vụ được tự do di chuyển đến các thị trấn, thị tứ, nơi gần đường giao thông để xây dựng cơ sở kinh doanh. Việc làm này vừa đáp ứng như câù trước mắt, vừa tạo ra những điều kiện để sớm hình thành các tụ điểm công - thương nghiệp - dịch vụ ở nông thôn. Đây là quá trình“đô thị hoá” - “công nghiệp hoá - hiện đại hoá” nhưng “phi tập trung hoá”.
Các chuyên gia nhận định, GDP tăng từ sản xuất nông nghiệp làm tăng thu nhập của người nghèo từ 2-4 lần so với GDP tăng từ các hoạt động phi nông nghiệp. Cơ chế khoán hộ đã giúp người nông dân thoát khỏi cảnh đói nghèo nhưng nếu không chuyển hướng cơ cấu theo hướng nông nghiệp lớn, có tỉ suất hàng hoá cao gắn với nhu cầu thị trường khu vực và thế giới thì nông nghiệp không thể có sức cạnh tranh trong xu thế mở cửa và hội nhập. Cần xác định lợi thế tương đối của từng vùng, lãnh thổ đặc thù, khả năng cạnh tranh để tổ chức tập hợp nông dân trong vùng sản xuất đã xác định để xây dựng thành cụm liên kết sản xuất nông nghiệp kỹ thuật cao có khả năng tạo ra những sản phẩm có thương hiệu nổi tiếng trong nước và quốc tế.
Trong bối cảnh hiện nay, mặc dù sản xuất ở qui mô nhỏ gắn với kinh tế hộ gia đình, nhưng lưu thông phải từng bước trở thành lưu thông lớn mới mở rộng quy mô sản xuất và thực diện chuyên môn hoá. Vì thế cần có các chủ thể trung gian cần thiết hỗ trợ cho chủ thể trung tâm của thi trường nông thôn là hộ gia đình. Các HTX cùng với thương nhân, các hộ nông nhàn hình thành một mạng lưới kinh doanh đa dạng, vừa cạnh tranh, vừa hợp tác với nhau, trong đó các DN đóng vai trò là chủ thể chính của kênh mua buôn, bán buôn các tư liệu sản xuất quan trọng và các nông phẩm chủ yếu phục vụ tiêu dùng tập trung, sản xuất công nghiệp và xuất khẩu. Như vậy việc xây dựng và phát triển các cụm kinh tế - thương mại - dịch vụ gồm nhiều chủ thể kinh doanh với các hình thức sở hữu đa dạng được xem là “mắc khâu” hết sức quan trọng trong việc tổ chức lại TTNT. Phải nhanh chóng hình thành cho được một lớp doanh nhân kiểu mới - doanh nhân nông nghiệp, loại hình DN mới cả về quy mô lẫn chất lượng.
Hiện mới chỉ có khoảng 5 - 7% số DN thực hiện gắn kết với nông dân thông qua việc hỗ trợ kỹ thuật, xây dựng vùng nguyên liệu và bao tiêu sản phẩm. Ông Ralf Matthaes, Giám đốc điều hành Công ty Nghiên cứu thị trường Taylor Nelson Sofres (TNS) đã lưu ý các nhà đầu tư về một số điểm mới rất đáng lưu ý: không phải thành thị mà chính khu vực nông thôn cần các DN đầu tư mở rộng.
Trước mắt cần tiếp tục đẩy mạnh chương trình xúc tiến thương mại thị trường trong nước, hỗ trợ các DN Việt, hàng Việt hướng về thị trường trong nước và người tiêu dùng Việt. Xây dựng kết nối nhà sản xuất, kinh doanh với nhà phân phối trong nước cũng như có chính sách hỗ trợ cụ thể để mở rộng độ bao phủ hàng hóa, tăng sự hiện diện của hàng Việt trên khắp cả nước. Cần hỗ trợ và có các chương trình quảng bá thương hiệu và đào tạo, nâng cao kiến thức, kỹ năng cho DN, đặc biệt là DN vừa và nhỏ; Ưu tiên phát triển thị trường trung và dài hạn cho thị trường nội địa; Khuyến khích vận động các cơ quan Nhà nước ưu tiên dùng hàng Việt trong mua sắm…
Xây dựng kênh truyền thông về tuyên truyền quảng bá riêng về Hàng Việt; Tuần hàng Việt trên khắp cả nước; Chương trình nhân rộng chuỗi cửa hàng bình ổn thị trường bán hàng tiêu dùng; Xây dựng chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu dùng…Bên cạnh đó phải thực thi quyết liệt chương trình hành động phòng chống hàng giả, hàng lậu.
Việc hoàn thiện hệ thống tổ chức thông tin là nhân tố quan trọng để phát triển thị trường. Về thương mại, Cục Thống kê là cơ quan thu thập xử lý và cung cấp thông tin thống kê thương mại trên phạm vi địa bàn cho các cơ quan quản lý thương mại của địa phương và các đối tượng khác. Bộ Công Thương cung cấp thông tin tổng hợp cho các thành viên theo yêu cầu. Các Hiệp hội ngành hàng cần phải đóng vai trò tích cực và quan trọng hơn trong việc cung cấp các thông tin chuyên ngành cho các hội viên của mình.
Nếu chúng ta quyết tâm thay đổi thì thương mại và TTNTMN chắc chắn sẽ có sự đột phá và khởi sắc, góp phần tạo nên diện mạo mới cho nông thôn Việt Nam. Câu hỏi này nằm về phía chính phủ, mỗi bộ, ngành, từng địa phương và mỗi người dân trong sự quyết tâm để tạo nên một cuộc đổi mới, phát huy những “nỗ lực” của thị trường - bước ngoặt mà chúng ta cần tiến đến để đưa nông nghiệp, nông thôn bứt phá nhanh trong thập kỷ này./.
Vũ Huy Hùng
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT