5. Các chính sách, biện pháp để phát triển thị trường HHTTMT thời gian qua
5.1. Những kết quả đạt được
- Thông qua các Luật, Chiến lược, Chương trình, nhiều hoạt động hỗ trợ phát triển HHTTMT đã được triển khai hiệu quả như: Khuyến khích, hỗ trợ DN áp dụng sản xuất sạch hơn trong công nghiệp, thúc đẩy đổi mới, áp dụng công nghệ xanh, thân thiện với môi trường, thực hiện chứng nhận, dán Nhãn Xanh Việt Nam, Nhãn Năng lượng, tăng cường tái chế, tái sử dụng, tuần hoàn chất thải, hạn chế việc sử dụng bao bì khó phân huỷ, thay thế bằng bao bì thân thiện với môi trường, từng bước hình hành những thói quen tiêu dùng bền vững…
- Chương trình Nhãn Xanh Việt Nam cũng đã cấp chứng nhận Nhãn Xanh Việt Nam cho 53 hàng hóa của 05 công ty (Công ty TNHH Procter & Gramble; Công ty Cổ phần bóng đèn Điện Quang; Công ty TNHH Sơn Jotun Việt Nam; Văn phòng đại diện Fuji Xerox Asia Pacific Pte Ltd; Công ty TNHH Sơn Jotun Việt Nam).
- Chương trình dán Nhãn năng lượng đã góp phần tạo ra sự minh bạch về hiệu suất năng lượng giữa các thương hiệu. Với 13 chủng loại sản phẩm và 6215 mã sản phẩm được dán nhãn.
- Chương trình Sản xuất sạch hơn trong công nghiệp góp phần hình thành và phát triển mạng lưới các đơn vị đầu mối về sản xuất sạch hơn tại Bộ Công Thương và các địa phương. Tới nay, đã có 36 tỉnh thành có đơn vị đầu mối về sản xuất sạch hơn. Chương trình cũng hỗ trợ xây dựng 60 mô hình trình diễn về sản xuất sạch hơn. Đây là những điển hình tốt cho các DN cũng như các địa phương học tập kinh nghiệm và mở rộng triển khai.
- Việc sử dụng bao bì, túi đựng nhiều lần TTMT đã được triển khai thực hiện tại một số siêu thị lớn tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, tuy nhiên còn nằm trong phạm vi hẹp.
5.2. Những hạn chế và nguyên nhân
- Các chính sách thúc đẩy sản xuất HHTTMT chưa tạo động lực mạnh mẽ cho các DN. Cơ chế, chính sách khuyến khích và hỗ trợ DN đầu tư phát triển sản xuất HHTTMT còn bộc lộ nhiều mặt bất cập, mức độ hỗ trợ kinh phí để triển khai thực hiện các dự án đầu tư còn hạn chế. Nguồn kinh phí từ ngân sách Nhà nước để hỗ trợ DN đầu tư đổi mới công nghệ nhằm sản xuất hàng hóa TTMT còn ít, mức độ hỗ trợ thấp. Với mức hỗ trợ 30% tổng số vốn đầu tư để đổi mới dây chuyền công nghệ cho các DN và không quá 5 tỷ đồng cho một DN là khá thấp so với nhu cầu. Chính sách hỗ trợ chưa thu hút được các DN lớn đầu tư thay đổi dây chuyền công nghệ, chưa tạo ra được sự chuyển biến đáng kể để DN đổi mới công nghệ và quy trình sản xuất. Hầu như các DN chưa quan tâm đến khoản hỗ trợ này, cơ chế hỗ trợ các DN chưa có tính khuyến khích cao. Bên cạnh đó, các chính sách cũng chưa khơi dậy được nguồn vốn đầu tư từ xã hội, đặc biệt là nguồn vốn tín dụng đầu tư cho các dự án đổi mới công nghệ .
Hệ thống chính sách, chế tài, đặc biệt là Nghị định 19/2015/NĐ-CP đã quy định những chính sách ưu đãi về thuế, tiền thuê đất, hỗ trợ vốn đầu tư, trợ giá hàng hóa… cho các cơ sở sản xuất HHTTMT, nhưng lại ủy quyền cho các Bộ, ngành quy định mức ưu đãi, hỗ trợ. Đến nay vẫn thiếu các văn bản hướng dẫn cụ thể nên chưa được triển khai được. Mặt khác chỉ có hàng hóa được chứng nhận nhãn Xanh Việt Nam mới được hưởng các ưu đãi, hỗ trợ nên rất nhiều DN chuẩn bị đầu tư sản xuất HHTTMT sẽ không được hưởng ưu đãi, hỗ trợ cho tới khi hàng hóa của các DN này được chứng nhận Nhãn Xanh Việt Nam.
Các chính sách hướng đến phát triển tiêu dùng xanh còn thiếu đồng bộ, chẳng hạn chính sách “Mua sắm công bền vững” đối với các đơn vị sử dụng ngân sách, mặc dù đã có quy định, nhưng chậm thực thi do thiếu danh mục hàng hóa, tiêu chuẩn chất lượng của các hàng hóa thuộc danh mục mua sắm.
Các chương trình về mua sắm công xanh chưa được thực hiện, trong khi các chương trình này đóng vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt hành vi người tiêu dùng cá nhân cũng như DN.
Việc lồng ghép nội dung phát triển tiêu dùng xanh trong các chính sách khác nhau chưa tạo ra động lực khuyến khích, phát triển nhu cầu tiêu dùng xanh trên thị trường. Các quy định chính sách hỗ trợ thường tập trung cho khâu sản xuất , chưa hướng mạnh tới người tiêu dùng .
Các chính sách phát triển tiêu dùng HHTTMT còn thiếu tính thiết thực, chưa tạo ra được sự chuyển biến mạnh mẽ đối với phát triển tiêu dùng. Chủ yếu vẫn là hướng vào tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận thức, chưa có các chính sách kích cầu đủ mạnh đối với người tiêu dùng.
- Chương trình Nhãn Xanh Việt Nam chưa triển khai được nhiều các hoạt động hỗ trợ. Hơn 5 năm thực hiện chương trình Nhãn Xanh Việt Nam, rất ít các hoạt động nằm trong phạm vi chương trình được triển khai (hỗ trợ đánh giá, chứng nhận; tuyên truyền,quảng bá hỗ trợ xúc tiến thương mại cho HH TTMT…). Thực tế, thông tin về Chương trình Nhãn Xanh Việt Nam rất ít được đề cập trên phương tiện thông tin đại chúng, nên rất ít DN và người tiêu dùng biết được thông tin về chương trình. Nhiều DN chưa nhận thấy lợi ích khi tham gia Chương trình Nhãn Xanh Việt Nam. Đây cũng là nguyên nhân DN ít quan tâm đến Chương trình này.
- Các chính sách hướng mạnh vào phát triển nguồn cung sản phẩm trong khi thiếu biện pháp về giải quyết đầu ra, kích cầu tiêu thụ cũng như thuận lợi hóa quá trình lưu thông HHTTMT. Trong hầu hết các chính sách, phát triển tiêu thụ chỉ chỉ giới hạn ở một vài dòng trong giải pháp về truyền thông nhằm giúp nâng cao nhận thức cộng đồng. Trong khi các biện pháp cụ thể hướng tới thay đổi thói quen, nâng cao nhu cầu tiêu dùng HHTTMT (như phát triển kênh phân phối bán buôn, bán lẻ HHTTMT, xây dựng cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng HHTTMT, quảng bá và xây dựng thương hiệu sản phẩm, tuyên truyền rộng rãi lợi ích của việc sử dụng sản phẩm sinh thái, cách thức phân biệt và lựa chọn sản phẩm…) vẫn chưa được quan tâm. Đồng thời, ít có chính sách hướng tới phát triển mua sắm công xanh trong ngắn hạn và dài hạn.
Mặc dù đã có những bước phát triển đáng ghi nhận song thị trường HHTTMT nước ta vẫn còn gặp phải những trở ngại nhất định, cản trở sự phát triển thị trường như:
- Mức thu nhập của người dân Việt Nam ở mức trung bình và thấp, nên HHTTMT có giá cao, khó cạnh tranh với các hàng hóa cùng loại. Khó khăn tiếp theo là nhận thức của người tiêu dùng còn hạn chế.
- Người tiêu dùng, đặc biệt ở khu vực nông thôn vẫn chưa có đầy đủ nhận thức về vấn đề bảo vệ môi trường khi tiêu dùng hàng hóa và mức độ hiểu biết của họ về HHTTMT còn hạn chế (gần 72% người được hỏi đã nghe nói tới nhưng không hiểu rõ về sản phẩm HHTTMT.
Hình 04 : Mức độ hiểu biết của người tiêu dùng về HHTTMT

Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát của ISPONRE
- Chủng loại hàng hóa chưa đa dạng, khó có sự chọn lựa, HHTTMT ở nước ta, chưa được đầu tư dài hạn ở quy mô và phạm vi lớn, do đòi hỏi vốn đầu tư cho nguồn lực và cơ sở hạ tầng.
Hình 05: Tỷ lệ người trả lời có tiêu thụ các hàng hóa sinh thái

Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát của ISPONRE
- Các loại hàng hóa được xem là TTMT có giá cao, nhưng phần lớn là hàng hóa do các DN nước ngoài sản xuất, hoặc các nhà nhập khẩu (NK) tự công bố, ít có hàng hóa được chứng nhận bởi một bên thứ ba có uy tín .
- Ngoài ra, một trong những nguyên nhân trở thành rào cản cho quá trình phát triển thị trường HHTTMT ở nước ta là do quá trình nhận thức về bảo vệ môi trường nói chung và tác động tích cực của HHTTMT đối với người tiêu dùng còn hạn chế. Các DN vẫn chưa mặn mà với các loại nhãn, giấy chứng nhận do các cơ quan chức năng cấp bởi bài toán giữa lợi nhuận vẫn là rào cản trong sản xuất các loại HHTTMT.
- Trong những năm gần đây,nhiều hoạt động khởi nghiệp đã xuất hiện trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, các sáng kiến khởi nghiệp trong lĩnh vực môi trường còn manh mún, thâm nhập thị trường của DN gặp nhiều khó khăn.
Hình 06: Đánh giá về khó khăn trong phát triển thị trường HHTTMT phân theo ngành, lĩnh vực sản xuất

Nguồn: Kết quả điều tra của ISPONRE
6. Các giải pháp chủ yếu phát triển thị trường HHTTMT ở nước ta trong thời gian tới
6.1. Xu hướng phát triển thị trường
Căn cứ vào thực tiễn và bối cảnh khu vực và quốc tế,những chủ trương, định hướng lớn sẽ được thực hiện, có thể dự báo một số xu hướng chủ yếu phát triển thị trường HHTTMT ở nước ta trong những năm tới như sau:
i. Thị trường HHTTMT sẽ phát triển nhanh hơn trên cả hai phương diện cung và cầu.
- Về phía cung, dưới tác động của hội nhập kinh tế quốc tế và do ảnh hưởng trực tiếp của các cam kết, hiệp định, công ước đã được Việt Nam ký kết, sức hấp dẫn của Luật DN và Luật Đầu tư sửa đổi sẽ làm tăng nhanh hơn số DN Xanh, quy mô HHTTMT cung ứng trên thị trường nhờ đó cũng gia tăng cả từ sản xuất trong nước và kênh nhập khẩu.
- Về phía cầu, trong giai đoạn 2023 đến 2025, tiêu dùng Xanh cũng sẽ gia tăng. Nhu cầu tiêu dùng của dân cư đối với nhóm HHTTMT lương thực - thực phẩm sẽ tăng nhanh hơn đối với nhóm hàng phi thực phẩm. Đồng thời, nhu cầu mua hàng hoá, vật tư cho các chương trình, dự án của Chính phủ cũng gia tăng nhanh, nhất là các hàng hoá vật tư đáp ứng cho nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng.
ii. Thị trường HHTTMT cũng sẽ dần được thúc đẩy phát triển theo hướng hình thành thị trường cạnh tranh thực sự do áp lực cả từ phía thực thi các chính sách của Chính phủ và từ phía hoạt động của các DN trong nước và ngoài nước.
Với sự tác động của đa nhân tố, thị trường HHTTMT sẽ phát triển theo hướng có sự bứt phá nhanh vượt trội ở khu vực đô thị, khu vực có lợi thế so sánh về quy mô sản xuất, khả năng thu hút các DN FDI, các công ty xuyên quốc gia. Số lượng và chủng loại mặt hàng thuộc diện HHTTMT cũng sẽ gia tăng.
6.2. Các giải pháp chủ yếu phát triển thị trường
6.2.1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách vĩ mô
Chính phủ cần xác định các ngành/lĩnh vực trọng tâm có khả năng phát triển, trước hết, cần tập trung vào các hàng hóa mà hiện nay Việt Nam có thế mạnh như:
- Nhóm hàng hóa có khả năng thay đổi đầu vào là tài nguyên thiên nhiên bằng các nguồn đầu vào tái tạo hay thân thiện khí hậu (ngành tái chế).
- Nhóm các hàng hóa có khả năng áp dụng sản xuất sinh thái (rau quả an toàn, hữu cơ…).
- Nhóm hàng hóa năng lượng thay thế (năng lượng tái tạo và nhiên liệu sinh học).
Chính phủ cần có chính sách ưu đãi để khuyến khích các DN FDI đang sử dụng công nghệ lạc hậu, không TTMT, đầu tư chuyển đổi công nghệ, đáp ứng tiêu chuẩn nền kinh tế xanh; định ra một thời hạn để các DN thực hiện.
Để hướng FDI và o kinh tế xanh, cần kiên quyết không cho phép các tỉnh, thành phố tiếp nhận các dự án FDI mới vào những ngành công nghiệp tiêu hao nhiều năng lượng, gây hiệu ứng nhà kính, không thân thiện với môi trường.
Đã đến lúc các chính sách tài chính thể hiện “quyền lực” của mình để góp phần giúp Chính phủ hướng tới tăng trưởng xanh như mục tiêu đã đề ra. Hiện khung pháp lý và cơ chế, chính sách thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ theo hướng phát triển xanh đã được hình thành qua việc ban hành Luật Khoa học công nghệ, Luật Chuyển giao công nghệ; Luật Công nghệ cao; Luật Sử dụng năng lượng, tiết kiệm và hiệu quả… Chính phủ cũng ban hành Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Chiến lược quốc gia về tăng trưởng; Chiến lược sử dụng công nghệ sạch giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030… Bên cạnh đó, các Quỹ công nghệ cũng đã lần lượt được hình thành. Tuy nhiên, thực tế, DN Việt Nam vẫn chưa mặn mà với việc đầu tư nghiên cứu, ứng dụng công nghệ TTMT vào hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Để khuyến khích các DN tăng cường ứng dụng công nghệ thân thiện với môi trường vào sản xuất, các chính sách tài chính cần phải được thay đổi và hoàn thiện. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, cần sử dụng công cụ thuế, phí để điều tiết và định hướng sản xuất cũng như tiêu dùng. Ví dụ như ưu đãi thuế, phí, nguồn lực cho những công nghệ, quy trình sản xuất sản phẩm TTMT và ngược lại áp thuế cao những công nghệ, quy trình sản xuất lạc hậu, nguy cơ gây ô nhiễm.
Trong thời gian tới, Chính phủ và các bộ, ngành cần tài trợ cho các nghiên cứu đánh giá tác động chính sách; cân nhắc bổ sung phí bảo vệ môi trường đối với khí thải; có chính sách trợ cấp cho hoạt động công nghệ xanh, lấy nguồn thu từ nguồn phát thải; thành lập thị trường mua bán các chứng chỉ giảm phát thải; công bố danh sách các DN gây ô nhiễm quốc gia, vùng, địa phương… Tăng cường sự kết hợp của các Bộ, ngành trong việc triển khai các hoạt động của Chương trình Nhãn Xanh Việt Nam (nguồn nhân lực và tài chính).
- Bộ Công Thương trong giai đoạn 2023-2025 cần rà soát, sửa đổi Luật Thương mại theo hướng bổ sung quy định về hạ tầng thương mại để làm căn cứ pháp lý cho việc triển khai các chính sách có liên quan. Phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) xây dựng hệ thống tiêu chí theo dõi, đánh giá, báo cáo thực hiện Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững.
- Bộ Khoa học & Công nghệ cần triển khai nhanh đề án “Thúc đẩy chuyển giao, làm chủ và phát triển công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên giai đoạn đến năm 2025, định hướng đến năm 2030’’ mà Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 27 tháng 12 năm 2018 nhằm đẩy nhanh việc chuyển giao, làm chủ và phát triển công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam.
Trên thực tế, thị trường chuyển giao công nghệ tại Việt Nam chưa phát triển. Bộ cần làm đầu mối kết nối cung, cầu, giúp các tổ chức, DN sản xuất kinh doanh rút ngắn được quá trình tìm hiểu thị trường; tổ chức xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu về cung, cầu công nghệ cả ở thị trường trong và ngoài nước.
- Bộ Kế hoạch & Đầu tư rà soát, lồng ghép các hoạt động sản xuất và tiêu dùng bền vững vào trong các quy hoạch, kế hoạch phát triển quốc gia, ngành và địa phương. Xây dựng chính sách khuyến khích các DN, tổ chức, cá nhân đầu tư vào sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hóa thân thiện với môi trường.
- Bộ Tài chính cần xây dựng danh mục HHTTMT được ưu tiên lựa chọn khi thực hiện dự án đầu tư, mua sắm công. Bổ sung các quy định về ưu tiên cho HHTMT trong các quy định pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa.
Phối hợp cùng Bộ Công Thương, Bộ Tài nguyên & Môi trường sớm nghiên cứu xây dựng và ban hành hệ thống thuế Tiêu dùng xanh khuyến khích sản xuất, nhập khẩu (NK), XK các loại HHTTMT.
Luật thuế BVMT sửa đổi cần đưa vào quy định: nguồn thu thuế BVMT được quản lý trong chương mục riêng của ngân sách nhà nước và chỉ dành để đầu tư ngược lại cho các hoạt động BVMT. Bên cạnh đó phải quy định một cách chi tiết các khoản chi cho BVMT, trong đó bao gồm cả những khoản chi nhằm khuyến khích áp dụng công nghệ thân thiện môi trường và ưu đãi, hỗ trợ tiêu thụ những hàng hóa thân thiện với môi trường. Điều quan trọng không kém trong việc sửa đổi Luật thuế BVMT là việc ấn định các mức thuế suất cụ thể phải dựa trên các căn cứ khoa học nhằm chứng minh các mức thuế suất này được xác định theo mức độ gây tác động xấu đến môi trường của hàng hóa. Bên cạnh đó, nghiên cứu kết hợp thuế bảo vệ môi trường vào hệ thống thuế nhập khẩu.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu xây dựng và ban hành tiêu Nhãn Xanh Việt Nam cho các loại hàng tiêu dùng phổ biến, thị trường có nhu cầu cao.
6.2.2. Giải pháp tạo lập nguồn cung cho thị trường
Khi nhiều DN vẫn còn phải vật lộn với sự sinh tồn, kinh doanh xanh sẽ chỉ dừng lại ở “khẩu hiệu”. Điều quan trọng nhất là cần có những chính sách hỗ trợ để các DN mặn mà với kinh tế xanh.Chính sách hỗ trợ này cần có lộ trình cụ thể theo từng bước phát triển của nền kinh tế. Những việc cần làm là:
i) Tổ chức tốt các kênh thông tin về HHTTMT cho quảng cáo các DN.
ii) Tăng cường việc đào tạo chuyên môn để hỗ trợ các DN, bao gồm phương pháp quản lý, thực hành các lĩnh vực kỹ thuật cụ thể, công nghệ giảm thiểu phát thải khí nhà kinh…
iii) Chính sách ưu đãi, hỗ trợ không chỉ dành cho hàng hóa được chứng nhận Nhãn Xanh Việt Nam mà cần mở rộng cho các dự án sản xuất HHTTMT ở nhiều cấp độ khác nhau. Bên cạnh đó cần có hướng dẫn chi tiết về mức ưu đãi, hỗ trợ mà các đối tượng được hưởng. Trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc giải quyết cho các dự án được hưởng các ưu đãi, hỗ trợ. Theo đó:
- Ngân hàng Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các DN có chỉ số môi trường tốt được vay vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sử dụng công nghệ sạch.Sớm ban hành những văn bản hướng dẫn cụ thể để thực thi Nghị định 130-NĐ/CP của Chính phủ về chính sách hỗ trợ DN đầu tư cho các dự án sản xuất sạch. Với những DN đã được duyệt phương án đổi mới công nghệ, sản xuất xanh, nếu vay vốn ngân hàng cần được hỗ trợ từ 50% đến 100% chi phí chi trả lãi suất ngân hàng. Nguồn chi lấy từ Quỹ đổi mới Công nghệ quốc gia hoặc Quỹ phát triển KH&CN địa phương, tùy theo quy mô và tính chất của dự án.
- Dành một phần thích hợp từ Quỹ bảo vệ môi trường, Quỹ ủy thác Tín dụng xanh… để hỗ trợ DN đầu tư đổi mới công nghệ hoặc các dự án đầu tư mới, các dự án áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng.
- Song song với những việc làm trên, phải siết chặt việc NK máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ theo nguyên tắc: ưu tiên NK máy móc, thiết bị ở các nước có trình độ công nghệ cao, công nghệ tiên tiến. Các trường hợp cần phải NK máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng, phải đáp ứng các yêu cầu, hướng dẫn của Quyết định số: 18/2019/QĐ-TTg ngày 19 tháng 04 năm 2019 Thủ tướng Chính phủ Về việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng.
- Xây dựng Quy định cơ chế hỗ trợ về giá, quảng cáo, xúc tiến thương mại đối với các hàng hóa được sản xuất từ các công nghệ xanh.
iv) Về nguồn nhân lực, các DN được ưu tiên hỗ trợ đào tạo nguồn lực theo nhu cầu. Ngoài ra, cần hỗ trợ các DN có hàng hóa chủ lực về kết nối cung cầu, quảng bá hàng hóa trong nước và nước ngoài…
6.2.3. Giải pháp phát triển hệ thống phân phối
- Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận đất, tín dụng để phát triển cơ sở kinh doanh hiện đại, thông qua ngân hàng phát triển cho vay ưu đãi khi đầu tư vào lĩnh vực phát triển cơ sở kinh doanh hiện đại.
- Hỗ trợ hiệp hội trong việc tổ chức đào tạo các nhà phân phối nội địa, nhất là đào tạo các nhà phân phối nhỏ lẻ.
- Tăng cường liên kết hợp tác giữa các nhà phân phối trong nước kể cả mua bán, sát nhập để tạo sức mạnh tài chính đổi mới công nghệ, phát triển hệ thống xây dựng thương hiệu; liên kết giữa nhà sản xuất, nhà phân phối để ổn định nguồn hàng và thị trường tiêu thụ.
Bộ Công Thương nghiên cứu ban hành Quy phạm pháp luật (dưới dạng Thông tư) quy định các cơ sở bán lẻ của các DN FDI tại Việt Nam phải dành một diện tích (khu vực) nhất định cho việc quảng bá, giới thiệu hàng hóa sản xuất tại Việt Nam. Về nguồn cung ứng, tỷ lệ hàng hóa sản xuất trong nước không dưới 55% trong tổng số danh mục hàng hóa. Hàng NK không được quá 45% số lượng mặt hàng được tiêu thụ qua mạng lưới của mình.
Sửa đổi Quy chế Siêu thị, Trung tâm thương mại ban hành theo QĐ số 1371/2004/QĐ-BTM. Thay vì chỉ quy định ngưỡng diện tích tối thiểu như quy chế hiện hành đối với mỗi siêu thị, trung tâm thương mại, cần bổ sung quy định về ngưỡng diện tích tối đa đối với từng địa bàn, từng khu vực thị trường.
Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng và ban hành tiêu chí xếp hạng các nhà bán lẻ FDI trong việc tuân thủ pháp luật Việt Nam, coi đây là căn cứ xem xét việc cấp phép cho nhà phân phối nước ngoài được mở mới cơ sở bán lẻ thứ 02 (không coi đây là tiêu chí về tiêu chuẩn kiểm tra nhu cầu kinh tế - ENT).
Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn tăng cường hỗ trợ nông dân kết nối, tiếp cận với dịch vụ nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, kết nối với các DN chế biến, hệ thống tiêu thụ hàng hóa, qua đó, từng bước hình thành mạng sản xuất và chuỗi cung ứng kết nối sản xuất, chế biến, phân phối và bán hàng hóa.
6.2.4. Giải pháp khuyến khích tiêu dùng HHTTMT
- Gắn với cuộc vận động“Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, Hiệp hội Bán lẻ và Siêu thị, Hội bảo vệ Người tiêu dùng phải làm đầu mối vận động các đơn vị hội viên nâng cao tỷ trọng hàng Việt Nam tại các trung tâm và siêu thị, kết hợp với các biện pháp quảng cáo, khuyến mại chân thực. Trong cuộc vận động này, cả Chính phủ, người dân và cộng đồng DN đều có trách nhiệm .
- Tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các hàng hóa có mức phát thải cao. Miễn thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hóa phát thải thấp.
- Chính quyền địa phương cần tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận thức ý nghĩa, tầm quan trọng của hành vi tiêu dùng xanh đối với cá nhân, gia đình và cộng đồng.
- Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia khác trên thế giới để tiến hành trước một số chính sách cần thiết và khả thi như: Chính sách mua sắm xanh trong lĩnh vực công; Quy hoạch hoạt động tái chế; Chế tài với các nhà phân phối... Thiết lập một hệ thống thông tin công khai liên quan đến pháp luật, tiêu chuẩn, thủ tục tố tụng hành chính, công nghệ và các hàng hóa; triển khai ứng dụng Thẻ tín dụng xanh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tiếng Việt
1. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Dự án “Điều tra, khảo sát xây dựng đề án phát triển thị trường các hàng hóa thân thiện môi trường”.Hà Nội 2017
2.Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050, Hà Nội, 9.2012.
3.Lâm Việt Dũng, Nghiên cứu đề xuất chính sách phát triển các kênh phân phối hàng hóa thân thiện môi trường , Đề tài khoa học cấp Bộ.Hà Nội 2017
4.Phương Thanh Thủy (2015), Báo cáo nghiên cứu khoa họchàng hóa thân thiện với môi trường, tạp chí khoa học xã hội Việt Nam
II. Tiếng Anh
- BOLWIG, S. & GIBBON, P. 2009a. Counting carbon in the marketplace: Part 1-overview paper: Report for the OECD. Trade and Agriculture Directorate; Joint Working Party on Trade and Environment.
- GIBBON, P. & BOLWIG, S. 2007. The economic impact of a ban on imports of air freithed organic products to the UK, DIIS Working Paper.
- KASTERINE, A. & VANZETTI, D. 2010. The effectiveness, efficiency and equity of market-based and voluntary measures to mitigate greenhouse gas emissions from the agri-food sector. Trade and Environment Review 2010, 87-111.
- MICHAELOWA, A. & KRAUSE, K. 2000. International maritime transport and climate policy. Intereconomics, 35, 127-136.
ORGANISATION, G. 2009. Eurobarometer: Europeans' attitudes towards the issue of sustainable consumption and production. Ernst & Young.
- PAS, B. 2008. 2050: 2008 Specification for the assessment of the life cycle greenhouse gas emissions of goods and services. British Standards Institution.
- STECHEMESSER, K. & GUENTHER, E. 2012. Carbon accounting: a systematic literature review. Journal of Cleaner Production, 36, 17-38.
Vũ Huy Hùng - Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến thương mại - VIOIT
Ts Nguyễn Thanh Bình - Học Viện Ngân hàng Hà Nội