NGHIÊN CỨU

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Nghiên cứu

Phát triển thị trường hàng hóa xanh ở nước ta: lý luận, thực tiễn và giải pháp (Phần 1)

20/12/2022

Thị trường nước ta những năm vừa qua phát triển khá nhanh, đáp ứng nhu cầu đa dạng, muôn màu, muôn vẻ của người tiêu dùng. Mặt hàng thân thiện môi trường (TTMT) xuất hiện ngày càng nhiều hơn trên thị trường (Ống hút làm từ bột, thép không gỉ sử dụng nhiều lần; bao bì TTMT; sản phẩm tái chế, băng vệ sinh bằng vải…). Trở ngại lớn nhất đối với các nư­ớc đang phát triển hiện nay là làm thế nào để tận dụng được cơ hội của quá trình hội nhập để vừa phát triển kinh tế, đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực của nó đối với các vấn đề xã hội và môi trư­ờng. Phát triển thị trường hàng hóa thân thiện với môi trường (HHTTMT) sẽ góp phần quan trọng vào mục tiêu phát triển sản xuất, tiêu dùng bền vững, xanh hóa nền kinh tế.

1. Khái niệm về hàng hóa thân thiện với môi trường

Thuật ngữ hàng hóa thân thiện với môi trường (HHTTMT) lần đầu tiên được Hội nghị của liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) đưa ra năm 1995, theo đó “Hàng hóa TTMT là hàng hóa ít gây hại cho môi trường hơn ở một số giai đoạn trong vòng đời hàng hóa hơn các hàng hóa truyền thống; hoặc các hàng hóa có những đóng góp trong việc bảo tồn môi trường”. Theo quan niệm OECD thì “hàng hóa TTMT là các hàng hóa mà quá trình sản xuất ra chúng ngăn chặn, hạn chế, tối thiểu hóa hoặc không gây ra sự hủy hoại môi trường đối với các thành phần môi trường như nước, không khí, đất cũng như các khía cạnh khác liên quan như nước thải, tiếng ồn và hệ sinh thái”. Định nghĩa này cũng bao hàm cả công nghệ sạch hơn, các hàng hóa sạch hơn giảm thiểu được các rủi ro về môi trường, tối thiểu hóa ô nhiễm và sử dụng tài nguyên.

Một số quốc gia trên thế giới đã sử dụng “nhãn xanh” hay “nhãn sinh thái” để gắn cho các loại HHTTMT nhằm phân biệt với các hàng hóa thông thường cùng loại như: Nhãn sinh thái Blue Angel (Nhãn Thiên thần Xanh) do Đức triển khai áp dụng từ năm 1978; Nhãn EU Eolabel (Nhãn Bông hóa châu Âu) do liên minh Châu Âu triển khai áp dụng từ năm 1990; Nhãn Eco Mark do Nhật Bản triển khai áp dụng từ năm 1989; Nhãn KOECO do Hàn Quốc triển khai áp dụng từ năm 1992; Nhãn Green Singapore do Singapore triển khai áp dụng từ năm 1992… có khoảng 44.051 hàng hóa được dán nhãn sinh thái EU Ecolabel, 10.000 hàng hóa được dán nhãn sinh thái Blue Angel, 9.800 hàng hóa được dán nhãn sinh thái KOECO…

Hình 01: Sự khác nhau giữa hàng hóa truyền thống và HHTTMT

 Nguồn: Tổng hợp của nhóm nghiên cứu

Tại các nước phát triển, người tiêu dùng đặc biệt quan tâm và hướng đến nhiều hơn về các hàng hóa có tính thân thiện với môi trường của hàng hóa được đem ra thị trường. Đến nay, loại hình HHTTMT ngày càng được mở rộng ở rất nhiêu lĩnh vực: thiết bị điện, điện tử, gia dụng, thiết bị văn phòng, đồ nội thất và trang trí, vật liệu xây dựng, bao bì, hàng hóa may mặc, các hàng hóa làng nghề, nông sản…

Như vậy có thể quan niệm: HHTTMT là  hàng hóa mà quá trình sản xuất, tiêu thụ và thải bỏ không ảnh hưởng tiêu cực đối với môi trường (hoặc nếu có thì cũng nhẹ hơn so với tác động tới môi trường của các hàng hóa  tương tự cùng loại). Một cách giản đơn, HHTTMT có thể được hiểu là: Các loại hàng hóa được dán (mang) nhãn“hàng hóa xanh”; Hàng hóa “tiết kiệm năng lượng”; Các nguồn năng lượng mới và năng lượng tái tạo; Hàng hóa được sản xuất theo cơ chế phát triển sạch (Clean Development Mechanism – CDM) .

Bảng 01: Phương pháp nhận dạng HHTTMT

Phạm vi tiếp cận

Phương pháp đánh giá/nhận dạng

Thị trường quốc tế

  • Hàng hóa được chứng nhận “nhãn sinh thái low-C”
  • Hàng hóa được chứng nhận “hồ sơ môi trường”, có trong danh sách “Green Book Live”
  • Hàng hóa của dự án thực hiện theo các cơ chế quy định bởi UNFCCC và nghị định thư Kyoto

Thị trường trong nước

  • Hàng hóa được dán “nhãn Xanh”
  • Hàng hóa được dán nhãn “Tiết kiệm năng lượng”
  • Hàng hóa sản xuất theo cơ chế CDM
  • Năng lượng mới và năng lượng tái tạo

Nguồn : Tổng hợp của nhóm nghiên cứu

Nhìn chung ít có hàng hóa nào được xem là TTMT một cách tuyệt đối mà thực tiễn chỉ tồn tại những hàng hóa TTMT một cách tương đối. Một hàng hóa chỉ được coi là hoàn toàn thân thiện với môi trường khi và chỉ khi nó đáp ứng được tất cả các tiêu chuẩn về tính thân thiện với môi trường từ giai đoạn sản xuất (bao gồm nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất) cho tới giai đoạn đưa vào tiêu dùng, sử dụng và cuối cùng là giai đoạn thải bỏ sau khi sử dụng. Các tiêu chuẩn để đánh giá tính thân thiện rất khác nhau qua từng vùng lãnh thổ, từng khu vực trên thế giới, cho nên khái niệm “Hàng hóa thân thiện với môi trường” luôn mang tính chất tương đối.

Đặc tính của một loại HHTTMT chủ yếu biểu hiện bằng các đặc trưng như sử dụng Nguyên liệu; Công nghệ; Bao bì xanh/thân thiện.

2. Phân loại hàng hóa thân thiện với môi trường

(i). Theo Hiệp hội Thương mại và Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNCTAD), có 3 hình thức tiếp cận để phân loại hàng hóa TTMT:

- Chức năng môi trường của hàng hóa

- Tác động môi trường của hàng hóa theo vòng đời

          - Tác động môi trường của những hàng hóa khác có sử dụng hàng hóa (là đầu vào của hàng hóa khác)

Từ đó UNCTAD chia HHTTMT thành 02 nhóm là:

- Nhóm A: Hàng hóa công nghiệp được sử dụng để cung cấp dịch vụ môi trường

- Nhóm B: Các hàng hóa công nghiệp và gia dụng có đặc tính TTMT

Từ hai phân nhóm chính này, kết hợp với hệ thống phân loại hàng hóa HS.Hệ thống phân loại HHTTMT được UNTAD đưa ra vào năm 1995, theo đó các hàng hóa là HHTTMT được chia làm 6 phân ngành:

- Các loại phương tiện giao thông TTMT

- Năng lượng TTMT

- Các hàng hóa sử dụng cho kiểm soát ô nhiễm

- Các loại hàng hóa nông sản TTMT

- Các loại HHTTMT cùng loại

- Các hàng hóa làm từ chất thải và rác thải.

Mỗi một danh mục sản phẩm, HHTTMT này lại được phân nhỏ ra các danh mục chi tiết hơn, bao gồm các thành phần, các giai đoạn và cấu trúc của hàng hóa .

(ii). Phân loại theo Mạng lưới thu mua các hàng hóa sinh thái (International Green Procedure Network - IGPN)

Theo Mạng lưới thu mua xanh quốc tế (IGPN) những hàng hóa được đưa vào cơ sở dữ liệu của Mạng lưới thu mua Xanh được coi là HHTTMT. Mạng lưới thu mua sinh thái này được phát triển thành một hệ thống ở các nước và hình thành một hệ thống các loại hàng hóa được coi là TTMT phù hợp với các điều kiện, hoàn cảnh của từng nước dựa trên các tiêu chí của tổ chức này.

Các tiêu chí mà hàng hóa TTMT được tham gia vào mạng lưới thu mua sinh phải thỏa mãn đó là:

- Nguyên liệu hoặc một phần/thành phần nguyên liệu sử dụng trong sản xuất hàng hóa có đóng góp vào việc giảm thiểu tác động môi trường.

- Khí nhà kính phát ra từ kết quả sử dụng hàng hóa không gây ra tác động môi trường trên diện rộng.

- Toàn bộ hoặc một phần hàng hóa có thể tái chế hoặc tái sử dụng, do đó hạn chế được chất thải tạo ra.

Theo đó, Tổ chức thu mua hàng hóa sinh thái quốc tế phân chia các hàng hóa TTMT thành 9 nhóm, bao gồm:

- Thiết bị điện, điện tử gia dụng;

- Thiết bị văn phòng, công nghệ thông tin;

- Phương tiện vận chuyển, máy móc, cơ khí;

- Đồ nội thất và trang trí;

- Vật liệu và máy móc xây dựng, vật liệu bao gói bao bì, thiết bị an ninh an toàn và y tế năng lượng;

- Hàng hóa may mặc, các hàng hóa là sản phẩm của làng nghề;

- Nông sản thực phẩm;

- Dịch vụ sinh thái, du lịch sinh thái;

- Các hoạt động nghiên cứu và phát triển về môi trường, công nghệ và thiết bị liên quan đến môi trường...

Các quy định của IGPN đối với hàng hóa thân thiện với môi trường hay còn gọi là các hướng dẫn và tiêu chí chính của IGPN về hoạt động mua sắm xanh dựa trên các qui định của 4 tổ chức: SEMCO, GPN Japan, ICLEI Procura+, UNEP.

- Thiết bị điện, điện tử gia dụng;

+ Tuân thủ các qui định về nguồn năng lượng có thể tái tạo (RES – Renewable Energy Sources)

+ Ưu tiên những nguồn năng lượng ngoài thủy năng: Các thiết bị điện, điện tử gia dụng nếu sử dụng năng lượng có thể tái tạo mà không phải thủy năng được khuyến khích hơn.

- Thiết bị văn phòng, công nghệ thông tin;

+ Hiệu suất năng lượng: Tiêu chuẩn Ngôi sao Năng lượng (Energy Start standards) mới nâng cấp cho mát tính và các thiết bị hình ảnh như máy in, máy photocopy, MFDs, máy scan... (kể cả loại dùng CD-ROM hoặc không) đều đạt mức 25-35% của hàng hóa trên thị trường.

+ Giảm thiểu sử dụng thủy ngân trong đèn nền màn hình

+ Đảm bảo tuổi thọ hàng hóa bằng việc yêu cầu bảo hành dài hạn, cung cấp các thiết bị thay thế rời và khả năng nâng cấp máy móc dễ dàng hơn.

+ Đảm bảo máy móc dễ dàng tháo rời và tái chế sau thời gian sử dụng.

+ Giới hạn sự phát thải điện từ

+ Giới hạn sự phát thải âm thanh

+ Các hàng hóa cần có hướng dẫn cụ thể cách sử dụng

+ Cân nhắc tắt gọn hệ thống khách hàng để các chương trình và trình duyệt chỉ tập chung vào một sever nhất định.

+ Tập trung cho các thiết bị đa chức năng (MFD – Multi-functional device).

- Phương tiện vận chuyển, máy móc, cơ khí;

+ Chuẩn phát thải: Cần đưa ra chuẩn phát thải khí đối với các phương tiện giao thông, phương tiện vận chuyển, các loại máy móc. Tất cả các loại phương tiện, máy móc cần kiểm tra xem đã đạt đến mức chuẩn thải nhất định (theo tiêu chuẩn của EURO IV) trước khi đưa vào sử dụng.

+ Cách thức hoạt động: Cách thức hoạt động cần làm sao ít tốn kém nhất, nếu có thể kết hợp với đào tạo thích hợp thì có thể tạo ra 1 cách tiết kiệm nhiên liệu hiệu quả hơn rất nhiều.

- Đồ nội thất và trang trí;

+ Nguyên vật liệu cần đảm bảo an toàn cho môi trường và không ảnh hưởng đến sức khỏe người sử dụng;

+ Cần có hướng dẫn cụ thể cách sử dụng;

+ Đảm bảo hàng hóa có thể dễ dàng tái chế hoặc khi đưa vào quá trình phân hủy không tạo ra các chất gây ô nhiễm.

- Vật liệu và máy móc xây dựng, vật liệu bao gói bao bì, thiết bị an ninh an toàn và y tế năng lượng;

+ Vật liệu và máy móc trong quá trình xây dựng: Cần dự trù trước thiết kế về các mặt: tối thiểu hóa tiêu chuẩn nhu cầu năng lượng tịnh, đánh giá về các tiêu chuẩn năng lượng, tối thiểu hóa U-Values và/hoặc tỉ lệ, giảm thiểu năng lượng mặt trời…

+ Các loại vật liệu trong quá trình sử dụng không được trực tiếp gây ô nhiễm hoặc gián tiếp tạo ra tác nhân gây ô nhiễm hay có hại cho sức khỏe con người.

+ Các thiết bị an ninh an toàn và y tế năng lượng cần đảm bảo tính tiết kiệm và không trực tiếp hay gián tiếp gây hại cho môi trường và sức khỏe con người.

- Hàng hóa may mặc, các hàng hóa làng nghề;

- Nông sản thực phẩm;

+ Khuyến khích các hàng hóa hữu cơ.

+ Độc tố Aflatoxin: cần tuân thủ và kiểm nghiệm nồng độ chất này trong nông sản. Độc tố này xuất hiện trong nông sản bị nhiễm mốc.

+ Mức dư lượng tối đa trong các hàng hóa thực phẩm: Dư lượng thuốc được tính bằng mg trong 1 kg nông sản. Tuy vậy, lượng thuốc tồn dư này phải đạt tới một mức nào đó mới có thể gây độc. Lượng thuốc nhiều nhất tồn dư trên nông sản mà không độc cho người ăn nông sản đó gọi là dư lượng tối đa cho phép, viết tắt theo tiếng Anh là MRL (Maximum Residue Limited). Nếu dư lượng thuốc dưới mức tối đa cho phép thì không gây độc, trên mức này thì mới gây độc. Từng loại thuốc đối với từng loại nông sản có mức dư lượng tối đa cho phép khác nhau. Mức dư lượng tối đa cho phép cũng khác nhau ở mỗi nước tùy theo đặc điểm sinh thái, sinh lý và đặc điểm dinh dưỡng của người dân nước đó.

- Dịch vụ sinh thái, du lịch sinh thái;

+ Cần đảm bảo việc bảo vệ môi trường trong quá trình thực hiện các dịch vụ sinh thái;

+ Đảm bảo các hoạt động du lịch sinh thái không gây ô nhiễm hay ảnh hưởng đến sức khỏe người dân địa phương;

+ Vấn đề rác thải từ quá trình sử dụng dịch vụ sinh thái, các tour du lịch sinh thái cần phải đảm bảo được xử lý triệt để, không để lại hậu quả ô nhiễm hay tạo ra các chất độc hại với cơ thể con người.

- Các hoạt động nghiên cứu và phát triển về môi trường, công nghệ và thiết bị liên quan đến môi trường...

+ Loại trừ các chất hoặc thành phần cụ thể sau: Đối với các hoạt động hay thiết bị liên quan đến môi trường cần loại bỏ tất cả các chất gây độc hại cho môi trường địa phương và sức khỏe con người hoặc tìm kiếm các nguyên liệu thay thế an toàn hơn.

+ Lượng thiết bị và các hướng dẫn: Trong nhiều trường hợp lượng máy móc sử dụng nhiều quá mức cần thiết do chưa tính toán kĩ hoặc chưa đo lường chính xác số lượng cần. Như vậy, điều này gây ra tình trạng lãng phí tài nguyên. Vì vậy, trong mọi hoạt động nghiên cứu hoặc trong việc sử dụng thiết bị liên quan đến môi trường cần thực hiện tiết kiệm thông qua việc cắt giảm máy móc và tài liệu vừa mức cần thiết.

(iii).Tiêu chí và phân loại của EU

Tiêu chuẩn đối với HHTTMT được phân chia dựa trên các tiêu chí:

- Hàng hóa có chứa các thành phần là nguyên liệu tái chế;

- Thực hiện các chức năng môi trường (tiêu thụ năng lượng có hiệu quả, khả năng tái chế, khả năng tự phân hủy, ít hoặc không gây ô nhiễm).

Theo các tiêu chí này, EU quy định cụ thể các tiêu chí đối với HHTTMT như sau :

- Có nguồn gốc bền vững (các thành phần của hàng hóa được khai thác theo cách bền vững từ nguồn tài nguyên rừng nhiệt đới, có khả năng thích ứng với các điều kiện của môi trường);

- Áp dụng công nghệ sản xuất TTMT ;

- Có hệ thống chế biến/xử lý phù hợp (quy mô phù hợp, và tiết kiêm được năng lượng);

- Không gây ảnh hưởng đến sức khỏe (không có hợp chất gây ung thư và dễ sử dụng, an toàn cho công nhân khi sản xuất);

- Hàng hóa sau khi sử dụng có thể tái sử dụng hay tự phân hủy.

(iv). Tiêu chí phân loại của UNEP (United Nations Environment Programme - UNEP: Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc)

Một số tiêu chí mà HHTTMT được tổ chức UNEP quy định phải thỏa mãn, đó là :

- Nguyên liệu hoặc một phần/thành phần nguyên liệu sử dụng trong sản xuất hàng hóa có đóng góp vào việc giảm thiểu tác động môi trường;

- Khí nhà kính phát ra từ kết quả sử dụng hàng hóa không gây ra tác động môi trường trên diện rộng;

- Toàn bộ hoặc một phần hàng hóa có thể tái chế hoặc tái sử dụng, do đó hạn chế được chất thải tạo ra.

Theo đó Chương trình Môi trường Liên hiệp quốc phân  chia các loại HH TTMT thành 6 nhóm, bao gồm: Phương tiện vận chuyển; Đồ nội thất; Thực phẩm và các thiết bị nhà bếp; Pin và năng lượng; Thiết bị văn phòng; Hàng hóa làm sạch.

3. Về thị trường hàng hóa thân thiện với môi trường

Tiếp cận chung, có thể quan niệm: “Thị trường HHTTMT là toàn bộ các hoạt động mua bán, trao đổi, là quan hệ kinh tế giữa người mua và người bán về các loại HHTTMT”. Để phát triển thị trường HHTTMT, cần phát triển các yếu tố tạo nên thị trường như: phát triển cung (nguồn hàng), phát triển cầu (tiêu dùng) và phát triển các hệ thống phân phối.

Trong nghiên cứu của mình, học giả Horbarch (2008) đã phân loại các nhân tố thúc đẩy thị trường HHTTMT thành ba nhóm được trình bày ở Bảng dưới: nhóm bên cung (demand side) ; nhóm bên cầu (supply side) và nhóm chính sách (policy side).

Bảng 02: Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến thị trường HHTTMT

Nhóm

Nhân tố

Bên cung

- Năng lực công nghệ

- Phân bổ lợi ích và đặc điểm thị trường

Bên cầu

- Nhu cầu mong muốn của thị trường

- Nhận thức của xã hội đối với quá trình sản xuất sạch hơn;

- Ý thức môi trường và thị hiếu đối với HHTTMT.

Bên chính sách của nhà nước (ảnh hưởng của thể chế và chính trị)

 

- Công cụ chính sách môi trường

- Cấu trúc thể chế

Nguồn: Horbarch 2008

Nhân tố ở nhóm bên cung bao gồm: năng lực công nghệ cho đổi mới sinh thái, khả năng có thể giải quyết vấn đề về phân bổ lợi ích (đối với chủ thể tạo ra đổi mới) và đặc điểm thị trường. Nhân tố ở nhóm bên cầu là nhu cầu kỳ vọng của thị trường đối với HHTTMT; bao gồm: nhu cầu xã hội, nhận thức và thị hiếu của người tiêu dùng với HHTTMT.

Nhóm chính sách (nhà nước) là thể chế, bao gồm: cơ hội chính trị đối với những nhóm đem lại lợi ích cho môi trường; luồng thông tin vận hành và mạng lưới đổi mới sinh thái hiện hành.

Những yếu tố đại diện cho lực đẩy công nghệ là đặc biệt quan trọng trong giai đoạn ban đầu(initial phase) của chu kỳ hàng hóa và dịch vụ mới hướng tới thân thiện với môi trường (trong đó bao gồm cả cả quá trình phát triển ra hàng hóa mớí), trong khi đó những yếu tố bên cầu đại diện cho lực kéo của thị trường thì lại rất quan trọng trong giai đoạn mở rộng (defusion phase  (Horbach, 2008). Trong giai đoạn mở rộng hàng hóa TTMT, thì nhu cầu (cầu) từ phía người tiêu thụ, mua sắm công (nhà nước), doanh nghiệp (DN) và xuất khẩu (XK)là rất quan trọng.

Phát triển thị trường HHTTMTtập hợp các hoạt động của nhà nước và DN nhằm tạo ra tạo ra sự chuyển biến cả về số lượng, chất lượng của nguồn cung hàng hóa, khách hàng tiêu dùng và hoàn thiện hệ thống phân phối để gia tăng việc sản xuất và tiêu thụ các loại HHTTMT, góp phần đẩy nhanh việc thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.

Phát triển thị trường theo chiều rộng là gia tăng nguồn cung, mở rộng thêm phạm vi địa lý thông qua việc gia tăng mạng lưới các cơ sở bán lẻ, gia tăng khối lượng người tiêu dùng thông qua việc vận động người dân mua sắm, tiêu dùng các loại HHTTMT. Về thực chất đây là quá trình phát triển thị trường về mặt số lượng hay mặt lượng.

Phát triển thị trường theo chiều sâu là việc nâng cao chất lượng của các HHTTMT, giảm giá thành của hàng hóa. Hoàn thiện các kênh phân phối để  đưa HHTTMT đến tay người tiêu dùng với chất lượng đảm bảo, giá cả hợp lý.

4. Hiện trạng phát triển thị trường hàng hóa thân thiện với môi trường ở nước ta

4.1. Nguồn cung cho thị trường

Theo thời gian, khối lượng và chủng loại HHTTMT có mặt trên thị trường ngày càng phong phú, chất lượng từng bước được nâng cao. Danh mục HHTTMT xuất hiện ngày càng nhiều hơn trên giá, kệ ở các siêu thị, trung tâm thương mại, trung tâm mua sắm, cửa hàng. Người tiêu dùng ở các đô thị lớn, đặc biệt là nhóm có thu nhập cao đã quan tâm, chú trọng sử dụng nhiều hơn các loại HHTTMT. Một số chủng loại, mặt hàng thân thiện với môi trường đã tìm được đầu ra ở thị trường ngoài nước. Tuy nhiên so với nhiều nước trong khu vực và phát triển, nguồn cung HHTTMT ở nước ta vẫn còn khá sơ khai.  Số lượng các loại hàng hóa đạt tiêu chuẩn thân thiện với môi trường theo các tiêu chuẩn quốc tế vẫn còn ít, mới chỉ tập trung trong một số hàng hóa nhất định.

Sự “khiếm khuyết” của thị trường thể hiện trên các mặt sau:

- Năng lực sản xuất HHTTMT còn hạn chế. Khảo sát của Trường đại học Bách khoa TP.HCM năm 2018 cho thấy chỉ có gần 50% DN cho biết lý do đầu tư sản xuất hàng hóa xanh là để bảo vệ môi trường; 23,3% doanh nghiệp cho biết lý do DN đầu tư sản xuất - kinh doanh hàng hóa xanh là để tiết kiệm năng lượng.Trong khi đó, có 89% DN trả lời không nhận được sự hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước trong quá trình sản xuất - kinh doanh sản phẩm xanh; chỉ có 36%  DN cho biết họ nhận được sự ủng hộ của các nhà phân phối đối với hàng hóa xanh.  

- Số lượng DN chủ động đầu tư, đổi mới mô hình sản xuất theo hướng hiện đại vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong việc huy động nguồn lực, lựa chọn công nghệ phù hợp. Việc kiểm định các hàng hóa xanh, hàng hóa sạch, hàng hóa đạt các tiêu chuẩn chứng chỉ cho các DN nhiều khi chưa được thực hiện nghiêm túc. Tình trạng hàng giả, hàng nhái, kém chất lượng được lưu thông trên thị trường vẫn còn diễn ra,làm giảm niềm tin của  người tiêu dùng.

 

Hình 02 : Những nguyên nhân DN không đầu tư đổi mới công nghệ thân thiện với môi trường

Nguồn: Trung tâm Thông tin  và Dự báo KT-XH Quốc gia

Trên thị trường, số lượng và chủng loại HHTTMT hiện có mới chỉ tập trung vào một số nhóm, mặt hàng như  hàng hóa tiết kiệm năng lượng, vật liệu xây dựng, sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, dệt may, hàng hóa có nguồn gốc tái chế, năng lượng tái tạo… trong khi rất nhiều các nhóm có tiềm năng khác chưa được phát triển. Bản thân các nhóm hàng hóa đang phát triển cũng còn hết sức khiêm tốn.

Số lượng hàng hóa được dán Nhãn Xanh Việt Nam còn rất hạn chế. Một số hàng hóa xuất hiện trên thị trường mới chỉ ở cấp độ thấp của HHTTMT. Trong khi đó, để phát triển sản xuất các loại HHTTMT, các DN thường phải đối mặt với những khoản đầu tư lớn liên quan tới nguyên liệu, đổi mới công nghệ, cải tiến qui trình sản xuất hoặc thay thế nguyên liệu đầu vào... quảng cáo, truyền thông. Đây sẽ là những rào cản lớn cho các DN trong bối cảnh hiện nay.

Nhìn chung, chủng loại HHTTMT có nguồn gốc, xuất xứ từ nước ngoài vẫn chiếm ưu thế. Hầu như các loại HHTTMT sử dụng dài ngày trên thị trường hiện nay chủ yếu là NK nguyên chiếc từ nước ngoài về hoặc nhập linh kiện và gia công, lắp ráp tại Việt Nam.

Việc áp dụng các công cụ kinh tế trong việc thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng xanh hiện nay chưa đủ mạnh. Đây cũng chính là một trong những hạn chế cần được khắc phục để hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh nói chung cũng như thúc đẩy thị trường hàng hóa thân thiện với môi trường ở nước ta nói riêng.

 4.2. Hệ thống phân phối

Các kênh/hình phức phân phối HHTTMT chưa phát triển. Theo ý kiến đánh giá của các nhà quản trị  DN, so với tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, tỷ trọng lưu chuyển HHTTMT tiêu thụ qua hệ thống  chợ chiếm 0,5%; thông qua mạng lưới các cửa hàng truyền thống khoảng 3,0%. Các siêu thị, trung tâm thương mại chiếm ưu thế và là một trong những loại hình bán lẻ chủ yếu các loại HHTTMT, chiếm tương ứng 13,0% và 9,0%. Các cửa hàng tiện lợi, chuyên doanh chiếm khoảng 3,5 và 5,5%. Ngoài các hình thức trên, một số hình thức tiêu thụ khác như  mua thẳng từ cơ sở sản xuất, dưới dạng hàng xách tay nhưng khối lượng không lớn chỉ chiếm khoảng 1,0%.

Bảng 03: Tỷ trọng lưu chuyển bán lẻ HHTTMT qua các loại hình thương mại trên thị trường trong nước

Hình thức tiêu thụ

Tỷ trọng

%

Hình thức tiêu thụ

Tỷ trọng

%

Chợ

0,5

Cửa hàng tiện lợi

3,5

Cửa hàng truyền thng

3,0

Cửa hàng chuyên doanh

5,5

Siêu thị

13,0

Các hình thức khác

1,0

Trung tâm thương mại, mua sắm

9,0

 

 

                               Nguồn: kết quả điều tra của tác giả

4.3. Tiêu dùng

Chi phí để sản xuất ra một đơn vị HHTTMT thường lớn hơn nhiều so với loại hàng hóa tương tự, nên giá thành cao và không có khả năng cạnh tranh trên thị trường (mức giá trung bình của các hàng hóa TTMT thường cao hơn 20-40% so với các loại hàng hóa tiêu dùng cùng loại). Sự phàn nàn của khách hàng đối với chất lượng hàng hóa không đúng như cam kết của nhà sản xuất cũng góp phần làm giảm lòng tin với các loại HHTTMT lưu thông trên thị trường.

Phần đông người tiêu dùng hiện vẫn quan tâm nhiều đến vấn đề chất lượng và mẫu mã hàng hóa, giá bán, ít quan tâm đến tính TTMT của hàng hóa.Đã có nhiều chiến dịch quảng bá,vận động, nhưng mức cầu tăng chậm.Mua sắm xanh hiện mới được triển khai đối với các hàng hóa được dán nhãn tiết kiệm năng lượng, nông sản hữu cơ... Việc tiêu dùng các hàng hóa được dán nhãn sinh thái cũng chủ yếu tập trung ở  tập người có trình độ học vấn cao, am hiểu cũng như quan tâm nhiều hơn đến vấn đề thân thiện với môi trường hơn so với các nhóm  khác.

Khảo nghiệm của Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường (ISPONRE) đối với người tiêu dùng tại 12 tỉnh/thành phố, cho thấy 63% số người được hỏi hiểu được tác dụng của việc tiêu dùng các HHTTMT; 71,8% người được hỏi đã nghe nói tới nhưng không biết rõ về HHTTMT. Tuy nhiên mức độ sẵn lòng chi trả cho HHTTMT không cao, chỉ có10% sẵn sàng mua; 37% cho rằng giá cả của HHTTMT đắt hơn so với các hàng hóa cùng loại.

Thói quen và thu nhập là một trong những yếu tố có ảnh hưởng khá lớn đến quyết định sử dụng hàng hóa của người tiêu dùng. Sử dụng hàng hóa xanh được hầu hết các nhóm khách hàng lựa chọn, tuy nhiên đối với các hàng hóa được dán nhãn sinh thái thì người tiêu dùng có thu nhập cao (trên 11 triệu đồng/tháng) chiếm tỷ trọng lớn hơn.

 

Hình 03: Đánh giá của người tiêu dùng về các loại hàng hóa thân thiện với môi trường

Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra của ISPONRE

 

                             Vũ Huy Hùng - Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến thương mại - VIOIT

TS Nguyễn Thanh Bình - Học Viện Ngân hàng Hà Nội

BÀI VIẾT KHÁC