1. Lịch sử hình thành và phát triển EU
Các quốc gia Tây Âu đã có sự hợp tác và liên kết toàn diện, chặt chẽ ngay sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, sự hợp tác và thống nhất giữa các nước Tây Âu giải quyết những khó khăn sau chiến tranh và thúc đẩy phát triển, tạo ra thế cạnh tranh mạnh mẽ cho khu vực này. Thực tế khách quan đó đã ra đời một Liên minh Châu Âu với sự liên kết của các quốc gia Tây Âu, đánh dấu vào lịch sử phát triển Tây Âu cũng như toàn Châu Âu.
EU hiện có 27 nước thành viên (Anh không còn là một nước thành viên của EU từ 31 tháng 1 năm 2020), ngày càng phát triển toàn diện trên mọi lĩnh vực, đặc biệt hội tụ nhiều nền kinh tế phát triển. Diện tích của toàn lãnh thổ Châu Âu trên 4 triệu km2 với dân số khoảng 500 triệu người, chiếm 7,3% toàn thế giới.
Liên minh Châu Âu có các định chế chính gồm Hội đồng Châu Âu, Hội đồng Bộ trưởng, Nghị viện Châu Âu, Ủy ban Châu Âu và Tòa án Châu Âu. Trong đó Hội đồng Châu Âu là cơ quan quyền lực cao nhất của EU gồm lãnh đạo của 27 nước thành viên, Chủ tịch Hội đồng Châu Âu và Chủ tịch EC.
Trải qua quá trình phát triển, các quốc gia Châu Âu liên tục phát triển và trở thành một Liên minh Châu Âu vững mạnh. Những mốc phát triển của EU sau hơn 50 năm hình thành:
Hiệp ước Paris thành lập Cộng đồng Than Thép Châu Âu (ECSC) được ký ngày 18/04/1951 với 6 thành viên sáng lập là Pháp, Đức (Tây Đức), I-ta-li-a, Bỉ, Hà Lan và Lúc - xăm - bua.
Hiệp ước Rô-ma thành lập Cộng đồng Năng lượng nguyên tử Châu Âu (Euratom) và Cộng đồng Kinh tế Châu Âu (EEC) được ký ngày 25/03/1957. Euratom thống nhất quản lý ngành năng lượng nguyên tử của 6 nước thành viên; EEC hướng tới thiếp lập thị trường chung, liên minh thuế quan (hoàn thành năm 1968) với sự di chuyển tự do của vốn và lao động.
Hiệp ước hợp nhất 3 cộng đồng nói trên (ECSC, Euratom và EEC), gọi chung là Cộng đồng Châu Âu (European Communities - EC) được ký ngày 08/04/1995. Hiệp ước thể hiện sự liên kết chặt chẽ, thiết lập một khu vực thống nhất giữa các quốc gia Châu Âu. Thông qua hiệp ước này, một thị trường chung, thống nhất được thành lập, trong đó hàng hóa, lao động, vốn đầu tư được tự do di chuyển; hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các nước được gỡ bỏ. Bên cạnh đó, hệ thống thuế quan và chính sách thương mại chung được đưa ra, các chính sách kinh tế khác cũng được thống nhất tạo ra một liên minh mạnh về kinh tế và chính trị.
Năm 1973, kết nạp thêm Đan Mạch, Ai-len và Anh. Năm 1981, kết nạp Hy Lạp và năm 1986, kết nạp Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.
Đạo luật Thị trường Thống nhất Châu Âu (Single European Act) ra đời năm 1987 sửa đổi Hiệp ước Rô-ma (1957) nhằm hoàn thiện việc thiết lập thị trường chung Châu Âu.
Hiệp ước Maastricht (còn gọi là Hiệp ước thành lập Liên minh Châu Âu) được ký ngày 07/02/1992 tại Maastricht - Hà Lan, với sự nhất trí của 12 nước thành viên EC gồm: Pháp, Đức, Bỉ, Hà Lan, Luc-xăm-bua, Anh, Đan Mạch, Ai-len, Hy Lạp, Italia, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha.
Năm 1995: Hiệp ước Schengen (về tự do di chuyển) có hiệu lực. Cũng trong năm này, kết nạp thêm các thành viên là Áo, Phần Lan và Thụy Điển.
Hiệp ước Amsterdam được ký kết vào ngày 02/10/1997 với sự thống nhất của 15 nước thành viên. Hiệp ước này tạo cơ sở pháp lý để đồng EU (đồng tiền chung của các nước Châu Âu) chính thức ra đời và đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1999.
Hiệp ước Nice (07/11-12/2000) tập trung vào vấn đề cải cách thể chế để tiếp nhận các thành viên mới, đồng thời tăng cường vai trò của Nghị viện Châu Âu.
-Năm 2002: Đồng Euro chính thức được lưu hành tại 12 nước thành viên EU.
Năm 2004: Kết nạp thêm 10 thành viên mới là Síp, Séc, Xlô-ve-ni-a, Hung-ga-ry, Lát-via, Li-thu-nia, Man-ta, Ba Lan, Xlô-va-ki-a và Estonia.
Năm 2007: Kết nạp Bungari và Rumani.
Hiệp ước Lisbon có hiệu lực vào ngày 01/12/2009, tên gọi đầy đủ là Hiệp ước sửa đổi Hiệp ước Liên minh Châu Âu và Hiệp ước thành lập cộng đồng Châu Âu
01/7/2013: Liên minh Châu Âu kết nạp Croatia.
Từ năm 2018: Các cuộc đàm phán gia nhập được tiến hành với Serbia (từ 2014), Montenegro (từ 2012) và Thổ Nhĩ Kỳ (từ 2005). Dự kiến Serbia và Montenegro sẽ tham gia vào năm 2025 trong nhiệm vụ tiếp theo của Ủy ban Châu Âu.
Năm 2020: Anh rút ra và không còn là thành viên của EU từ 31 tháng 1 năm 2020.
2. Tình hình phát triển kinh tế của EU hiện nay
Cuộc xung đột Nga - Ukraine tiếp diễn dẫn đến nền kinh tế EU vẫn tiếp tục bị gián đoạn. Có sự biến động trên thị trường khí đốt và sự thiếu hụt nguồn cung năng lượng. Ngoài ra, thị trường hàng hóa cũng bị tác động mạnh. Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng thấp, suy thoái kinh tế là điều không thể tránh khỏi, đầu tư công đang gia tăng. Mặc dù sự suy giảm mạnh về tăng trưởng nhưng sẽ ít khả năng xảy ra suy thoái toàn diện.
Mức tăng trưởng GDP của EU nói chung, Eurozone nói riêng trong năm 2023 đạt mức thấp là 0,5%. Năm 2024, mức tăng trưởng GDP dự kiến sẽ phục hồi ở mức khiêm tốn là 1,6% đối với EU và 1,5% đối với Eurozone. Lạm phát giảm nhanh và tiền lương tăng mạnh sẽ là những yếu tố thúc đẩy thu nhập khả dụng thực tế của các hộ gia đình, dẫn đến sự phục hồi trong tiêu dùng cá nhân. Việc thắt chặt chính sách tiền tệ dự kiến sẽ có tác động mạnh mẽ hơn vào năm 2024. Đối với thị trường lao động, tỷ lệ thất nghiệp của Eurozone tăng lên 7,0 % vào năm 2023.
Nợ công EU được dự đoán sẽ có xu hướng ở khoảng 87% GDP vào năm 2024 và 85% GDP vào năm 2025. Mặc dù lạm phát vẫn ở mức cao (6,1%) trong Eurozone vào năm 2023 và dự báo giảm xuống còn 2,6% vào năm 2024.
Khủng hoảng năng lượng vẫn tiếp diễn. Theo báo cáo mới nhất từ Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) cho thấy, trong năm 2023, mức chênh lệch cung - cầu khí đốt của châu Âu lên tới 27 tỷ m3. Khối lượng thiếu hụt này chiếm khoảng 6,8% nhu cầu sử dụng khí đốt tự nhiên của châu Âu trong năm 2023.
Theo IEA, sự thiếu hụt còn lại có thể được giảm nếu EU nỗ lực hơn nữa trong việc cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng, như thúc đẩy việc sử dụng năng lượng tái tạo. Bên cạnh đó, các chính phủ EU kết hợp các biện pháp tiết kiệm năng lượng và đa dạng hóa thị trường nhập khẩu năng lượng đã phần nào giải quyết được tình trạng thiếu hụt năng lượng.
Nền kinh tế EU tiếp tục tăng trưởng chậm và có dấu hiệu đi vào suy thoái kinh tế do vẫn chịu hậu quả nặng nề từ cuộc xung đột Nga - Ukraine, cũng như lạm phát kinh tế toàn cầu.
3. Các giai đoạn phát triển quan hệ kinh tế, thương mại Việt Nam - EU
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các quốc gia đều có sự hợp tác với nhau trên nhiều lĩnh vực trong đó đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, thương mại nhằm tìm kiếm thị trường xuất nhập khẩu, tìm vốn đầu tư, khoa học công nghệ và học hỏi các kinh nghiệm từ các nước phát triển.
EU hiện nay là một trong những đối tác đầu tư và thương mại hàng đầu của Việt Nam với kim ngạch thương mại hai chiều ngày càng tăng. Quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam - EU trải qua các giai đoạn phát triển:
- Quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước thành viên thuộc liên minh Châu Âu đã có từ lâu và phát triển nhanh, mạnh từ khi Việt Nam và EU chính thức thành lập quan hệ ngoại giao năm 1990.
- Từ năm 1990 - 1996, quan hệ hợp tác giữa EU và Việt Nam chủ yếu là trợ giúp người Việt Nam hồi hương và EU đã viện trợ cho mục đích này. Đến năm 1996, Việt Nam và EU thống nhất chiến lược phát triển và hợp tác nền kinh tế chung nhằm củng cố quá trình chuyển đổi kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường đồng thời giảm nhẹ chi phí xã hội trong quá trình chuyển đổi.
- Hiệp định thương mại về dệt may ký kết năm 1992 của Việt Nam với EU là một trong những thỏa thuận thương mại đầu tiên của nước ta với Liên minh Châu Âu EU.
- Hiệp định khung hợp tác Việt Nam - EC ký 7/1995 đánh dấu bước phát triển quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại giữa hai bên, Hiệp định này đưa ra các mục tiêu như: (1) Thúc đẩy quan hệ thương mại, đầu tư trên cơ sở cùng có lợi và dựa trên nguyên tắc tối huệ quốc; (2) Trợ giúp phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam; (3) Hỗ trợ Việt Nam trong quá trình cơ cấu lại nền kinh tế theo cơ chế thị trường; (4) Bảo vệ môi trường và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên góp phần vào phát triển bền vững.
- Năm 2002, EU đã trợ giúp tạo điều kiện xóa đói giảm nghèo, tăng cường phát triển nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển bền vững. Đồng thời trợ giúp cải cách kinh tế Việt Nam theo hướng cơ chế thị trường để nhanh chóng hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.
- Năm 2008, Việt Nam và EU bắt đầu khởi động tiến trình đàm phán PCA. Trải qua quá trình phát triển, quan hệ Việt Nam - EU phát triển nhanh chóng cả về bề rộng lẫn chiều sâu đặt ra yêu cầu xây dựng một khuôn khổ hợp tác mới, một khuôn khổ pháp lý mới thay thế cho Hiệp định khung Việt Nam - EC năm 1995.
- Năm 2012, Hiệp định PCA Việt Nam - EU được ký kết và khởi động đàm phán Hiệp định EVFTA. PCA giữa Việt Nam - EU đánh dấu một mốc mới trong quan hệ hợp tác hai bên, thể hiện những bước phát triển to lớn, sâu rộng của quan hệ Việt Nam - EU đồng thời tạo ra cơ sở pháp lý đưa quan hệ hợp tác Việt Nam - EU bước sang một giai đoạn mới.
- Tháng 6/2018: Việt Nam và EU đã chính thức thống nhất việc tách riêng EVFTA thành hai hiệp định gồm Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư (IPA); chính thức kết thúc toàn bộ quá trình rà soát pháp lý Hiệp định EVFTA; và thống nhất toàn bộ các nội dung của Hiệp định IPA.
- Ngày 30 tháng 6 năm 2019: Việt Nam và EU chính thức ký kết EVFTA và IPA. Hiệp định EVFTA chính thức có hiệu lực từ ngày 01/8/2020.
Hiệp định EVFTA tiếp tục duy trì đà xuất khẩu của Việt Nam sang EU và Việt Nam đã vươn lên thành đối tác thương mại lớn nhất của EU trong ASEAN.
EVFTA đã đánh dấu bước quan trọng trong quá trình 30 năm hợp tác và phát triển giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu, mở ra một giai đoạn mới cho mối quan hệ đối tác toàn diện đi vào chiều sâu, thiết thực và hiệu quả hơn.
EVFTA là Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới giúp cho việc kết nối Việt Nam với nền kinh tế của 27 nước thành viên của EU, các cam kết ở rất nhiều lĩnh vực và mức độ cam kết cao hơn hầu hết các FTA Việt Nam đã ký kết. Năm 2023, kim ngạch trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên EU đạt 72,3 tỷ USD, giảm 5,3% so với năm 2022, thặng dư thương mại đạt 34,3 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước EU năm 2022 đạt 46,8 tỷ USD, tăng 16,7% so với năm 2021. Kim ngạch nhập khẩu từ các nước EVFTA đạt 15,4 tỷ USD, giảm 8,6% so với năm 2021. Nhiều mặt hàng quan trọng của Việt Nam xuất khẩu sang EU tiếp tục tăng, như thủy sản tăng 29,5%, rau quả tăng 34,2%, giày dép tăng 49,7%, dệt may tăng 43,4%, gỗ và sản phẩm gỗ tăng 85,2%... Các thị trường xuất khẩu chính là Hà Lan, Đức, Italia, Bi, Pháp…
Kinh tế toàn cầu năm 2023 phục hồi chậm, áp lực lạm phát vẫn ở mức cao, tiêu dùng và các hoạt động kinh tế tiếp tục suy giảm, xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường chủ lực của nước ta đều giảm trong đó có thị trường EU.
Hiệp định EVFTA có hiệu lực được hơn 3 năm, phần lớn các cam kết của Hiệp định này bắt đầu được triển khai trên thực tế, bao gồm cả các cam kết về thuế quan, mở cửa thị trường dịch vụ, đầu tư, mua sắm công và cam kết trong nhiều lĩnh vực khác. Theo khảo sát của VCCI (Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam), tỷ lệ doanh nghiệp hiểu về EVFTA cao hơn so với các FTA khác, gần 50% doanh nghiệp từng hưởng những lợi ích cụ thể từ EVFTA, kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang EU tăng 16,7% vào năm 2022 và gần 20% năn 2023.
Các ưu đãi về thuế cho nhiều hàng hóa sẽ có lộ trình giảm thuế về 0% sau khi EVFTA có hiệu lực, người tiêu dùng trong nước có cơ hội tiếp cận với nhiều hàng hóa đa dạng về chủng loại, chất lượng cao nhập khẩu từ EU với giá cả phù hợp. Những mặt hàng nông sản như rau quả, sữa, ngũ cốc… có giá giảm so với những năm trước. Bên cạnh đó, máy móc, thiết bị nhập khẩu từ EU cũng giảm theo lộ trình giúp giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp.
EU là một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam và trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Mức tăng trưởng cao trong thương mại hai chiều suốt nhiều thập kỷ qua cho thấy sự tương thích giữa hai nền kinh tế và có sự phát triển mạnh kể từ khi thực thi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU.
Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU có tính bổ sung cao, ít có sự cạnh tranh lẫn nhau. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào EU có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng những mặt hàng chất lượng cao, thực phẩm sạch, giảm tỷ trọng hàng chất lượng trung bình và các sản phẩm thô chưa qua chế biến.
4. Tác động chung của EVFTA đến phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - EU
- EVFTA có những tác động trực tiếp tới thương mại giữa Việt Nam với EU như việc tạo lập thương mại, hàng hóa nhập khẩu từ EU sẽ thay thế các hàng hóa sản xuất trong nước có chi phí cao hơn, và chuyển hướng thương mại, hàng hóa nhập khẩu từ EU thay thế hàng hóa nhập khẩu từ các nước khác do những ưu đãi về thuế và các điều khoản khác làm tăng lợi thế so sánh của hàng hóa nhập khẩu từ EU trong quá trình thực thi EVFTA.
- Việc giảm thuế suất từ phía EU (loại bỏ thuế quan đối với hơn 90 loại thuế) làm tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Việt Nam có khả năng tiếp cận sâu rộng hơn vào thị trường EU. Những ưu đãi thuế quan từ việc tham gia EVFTA làm giảm chi phí những nhóm hàng sản xuất trong nước, quy mô sản xuất được mở rộng và thúc đẩy xuất khẩu một cách mạnh mẽ sang các nước EU.
- Việc giảm thuế suất nhập khẩu của Việt Nam khi tham gia EVFTA giúp Việt Nam có lợi thế khi nhập khẩu các công nghệ và nguyên liệu có chất lượng cao với mức giá rẻ hơn từ Châu Âu. EVFTA cũng tạo ra xu hướng chuyển dịch xuất khẩu của EU khi các nước EU sẽ xuất khẩu các hàng hóa và dịch vụ chất lượng cao sang Việt Nam.
- Các cam kết về hàng rào phi thuế quan như các rào cản kỹ thuật, xuất xứ hàng hóa trong EVFTA thúc đẩy phát triển xuất khẩu của Việt Nam, nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.
- EVFTA góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, đầu tư thuận lợi và thúc đẩy đầu từ trực tiếp của EU và các nước khác vào Việt Nam. Đầu tư vào Việt Nam ngày càng tăng do tận dụng những lợi thế được tạo ra từ EVFTA, thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất hàng công nghệ cao, thu hút dòng vốn lớn vào các lĩnh vực dịch vụ chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, năng lượng, viễn thông, vận tải…
- EVFTA đưa ra các cam kết khá chặt chẽ trong các điều khoản về lao động và công đoàn, do vậy thúc đẩy, nâng cao các tiêu chuẩn lao động ở Việt nam phù hợp với các tiêu chuẩn lao động quốc tế. Tạo cơ hội việc làm chất lượng cao và tăng thu nhập cho người lao động ở nước ta, nâng cao đời sống của người dân.
- EVFTA thúc đẩy Việt Nam đưa ra các chính sách phù hợp, tái cấu trúc lại nền kinh tế theo xu hướng mới, phù hợp với bối cảnh mới, giúp nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng và phát triển bền vững.
TS. Trần Thị Thu Hiền
Phòng Thông tin và XTTM - VIOIT