1. Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) và Chương trình Thu hoạch sớm (EHP)
Tại Hội nghị cấp cao ASEAN - Trung Quốc lần thứ 3 tháng 11/2000 ở Singapore, Thủ Tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ đã chủ động đề xuất xây dựng khuôn khổ hợp tác kinh tế sâu sắc hơn giữa các nước ASEAN và Trung Quốc, nhất là việc thành lập khu vực Mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Sau thời gian chuẩn bị, ngày 14/11/2002 Hiệp định khung về Hợp tác Kinh tế Toàn diện ASEAN - Trung Quốc đã được ký kết tại Campuchia tạo khuôn khổ pháp lý thống nhất điều chỉnh toàn bộ các hoạt động hợp tác kinh tế giữa các nước ASEAN và Trung Quốc, đặc biệt là việc thiết lập khu vực Mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc trong vòng 10 năm (ACFTA)
Hiệp định ACFTA điều tiết bốn lĩnh vực lớn là: Hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và các lĩnh vực hợp tác kinh tế khác. ACFTA sẽ thực hiện vào năm 2010 đối với 6 nước thành viên cũ của ASEAN (Brunei, Indonesia, Malaysia, Singapore, Philippine, Thailand) và Trung Quốc. Bốn nước thành viên mới của ASEAN là Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam sẽ hoàn thiện vào năm 2015. Hiệp định ACFTA qui định:
- Các mặt hàng là đối tượng cắt giảm thuế được chia thành hai danh mục chủ yếu: Danh mục thông thường và Danh mục nhạy cảm. Với Danh mục thông thường, các nước ASEAN - 6 và Trung Quốc sẽ cắt giảm và loại bỏ thuế quan theo lộ trình từ 1/1/2005 đến năm 2010. Đối với các nước thành viên mới của ASEAN thời gian sẽ được kéo dài thêm 5 năm, bắt đầu từ 1/1/2005 và kết thúc vào năm 2015.
- Đối với hàng hóa thuộc Danh mục nhạy cảm có cơ chế cắt giảm thuế linh hoạt hơn với thời hạn kết thúc, thuế suất cuối cùng và số lượng giới hạn.
- Các bên có quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ thuần phong mỹ tục, sức khỏe, con người và động thực vật phù hợp với Điều XX của Hiệp định GATT.
Chương trình Thu hoạch sớm (EHP): là chương trình ưu đãi thuế quan được đặt ra nhằm ưu tiên thực hiện sớm các mức ưu đãi về thuế quan trong khuôn khổ khu vực Mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc trên cơ sở có đi có lại giữa các bên.
Trung Quốc và các nước ASEAN thống nhất chọn các mặt hàng từ Chương 1 đến Chương 8 của Danh bạ thuế quan hài hòa ASEAN (HS) với 8/9 chữ số để áp dụng EHP ngoại trừ các mặt hàng nằm trong Danh mục loại trừ; bao gồm; Chương 1 về động vật sống; Chương 2 về thịt và nội tạng động vật; Chương 3 về cá; Chương 4 về sữa và các sản phẩm sữa; Chương 5 về các sản phẩm khác từ động vật; Chương 6 về cây sống; Chương 7 về rau ăn; Chương 8 về quả và hạt ăn được.
Đối với các bên có mặt hàng nằm trong danh mục loại trừ có thể sửa đổi danh mục đó bất cứ lúc nào để đưa một hoặc nhiều mặt hàng trong danh mục này vào EHP. Các mặt hàng trong EHP được chia thành 3 nhóm để cắt giảm và xóa bỏ thuế quan theo khung thời gian quy định, tuy nhiên không ngăn cản bất kỳ bên nào đẩy nhanh việc cắt giảm và xóa bỏ thuế quan nếu bên đó muốn. Nhóm hàng được xác định như sau:
Nhóm 1: đối với Trung Quốc và các nước ASEAN - 6, áp dụng đối với tất cả mặt hàng có thuế suất MFN lớn hơn 15%. Các nước ASEAN khác thì áp dụng với tất cả mặt hàng có thuế suất MFN bằng 30% hoặc lớn hơn.
Nhóm 2: đối với Trung Quốc và các nước ASEAN - 6, áp dụng đối với tất cả mặt hàng có thuế suất MFN từ 5% đến 15% (kể cả các mặt hàng có thuế suất bằng 5% và 15%). Các nước ASEAN khác thì áp dụng với tất cả mặt hàng có thuế suất MFN từ 15% đến 30% (kể cả các mặt hàng có thuế suất 15% nhưng không áp dụng với mặt hàng có thuế suất 30%)
Nhóm 3: đối với Trung Quốc và các nước ASEAN - 6, áp dụng đối với tất cả mặt hàng có thuế suất MFN nhỏ hơn 5%. Các nước ASEAN khác thì áp dụng với tất cả mặt hàng có thuế suất MFN nhỏ hơn 15%. Các sản phẩm có mức thuế MFN 0% sẽ giữ nguyên ở mức 0%. Còn nếu mức thuế thực hiện được giảm xuống 0% thì sẽ giữ nguyên mức 0%.
Lộ trình cắt giảm thuế theo EHP:
Đối với Trung Quốc và các nước ASEAN - 6: EHP được thực hiện trong vòng 3 năm. Theo đó việc cắt giảm thuế được bắt đầu từ 1/1/2004 và hoàn thành không muộn hơn năm 2006. (Mức thuế suất vào thời điểm hoàn thành là 0%)
Đối với các thành viên mới của ASEAN, thời gian cắt giảm chậm hơn, cách thức cắt giảm linh hoạt hơn. Việt Nam bắt đầu thực hiện cắt giảm thuế từ 1/1/2004 nhưng hoàn thành không muộn hơn 1/1/2008.
Người ta quy định 2 danh mục: Danh mục hàng nhạy cảm cao và Danh mục hàng nhạy cảm thông thường.
Danh mục nhạy cảm thông thường (SL) được giới hạn số lượng các dòng thuế mà mỗi bên có thể đưa vào: Đối với các nước ASEAN - 6 và Trung Quốc: gồm 400 dòng thuế ở cấp HS 6 số và 10% tổng giá trị nhập khẩu dựa trên thống kê thương mại năm 2001. Đối với Campuchia, Lào, Myanmar gồm 500 dòng thuế cấp HS 6 số. Việt Nam có 500 dòng thuế cấp HS 6 số và mức trần tính trên giá trị nhập khẩu sẽ được quyết định không muộn hơn ngày 31/12/2004.
Danh mục nhạy cảm cao (HSL) tuân thủ mức trần sau: Đối với ASEAN - 6 và Trung Quốc: không vượt quá 40% tổng số dòng thuế trong Danh mục nhạy cảm hoặc 100 dòng thuế cấp HS 6 số tùy theo mức nào thấp hơn. Đối với Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam: không vượt qúa 40% tổng số dòng thuế trong Danh mục nhạy cảm hoặc 150 dòng thuế ở cấp HS 6 số tùy theo mức nào thấp hơn.
Lịch trình cắt giảm:
Các mặt hàng nhạy cảm thường (SL): Các nước ASEAN - 6 và Trung Quốc sẽ giảm thuế suất MFN của các dòng thuế được đưa vào Danh mục nhạy cảm thông thường tương ứng của mình xuống 20% không muộn hơn ngày 1/1/2012. Các thuế suất này sau đó sẽ được giảm xuống 0% - 5% không muộn hơn ngày 1/1/2018. Đối với Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam sẽ giảm thuế suất MFN áp dụng của các dòng thuế được đưa vào Danh mục nhạy cảm thông thường tương ứng của mình xuống còn 20% không muộn hơn ngày 1/1/2015. Các thuế suất này sau đó sẽ được giảm xuống còn 0% - 5% không muộn hơn 1/1/2020.
Các mặt hàng nhạy cảm cao (HSL): Các bên sẽ giảm thuế suất MFN áp dụng của các dòng thuế được đưa vào Danh mục nhạy cảm cao tương ứng xuống không quá 50% không muộn hơn 1/1/2015 đối với các nước ASEAN - 6 với Trung Quốc và 1/1/2018 đối với các quốc gia thành viên mới của ASEAN.
Tuy nhiên, bên nào cũng có thể đơn phương đẩy nhanh cắt giảm hoặc loại bỏ các dòng thuế trong Danh mục nhạy cảm vào bất kỳ thời gian nào nếu muốn, đồng thời bất cứ bên nào cũng có thể đơn phương chuyển bất kỳ dòng thuế nào từ Danh mục nhạy cảm sang Danh mục thông thường vào bất kỳ thời gian nào nếu muốn.
2. Cơ chế, chính sách của các nước nhập khẩu
Cũng như các lĩnh vực khác, trong nông nghiệp, tiếp cận thị trường là mức độ một nước cho phép hàng nhập khẩu bên ngoài thâm nhập vào thị trường của mình. Trong thương mại hàng nông sản, ngoài thuế quan, các biện pháp phi thuế quan thường được sử dụng để điều tiết việc nhập khẩu nông sản.
Mặt hàng nông sản nhập khẩu vào một quốc gia có thể được điều chỉnh và bị chi phối bởi một hệ thống các luật sau đây: luật kiểm soát ngoại hối và ngoại thương, luật và quy định liên quan đến hàng cấm, luật và quy định liên quan đến kiểm dịch của Chính phủ, các thủ tục hải quan, các quy định về thuế, luật về trách nhiệm sản phẩm…Nếu quốc gia nhập khẩu có một hệ thống luật thông thoáng đối với các nhà xuất khẩu nông sản, các rào cản thương mại như chính sách thuế và các công cụ phi thuế quan không quá khắt khe, thì sẽ tạo điều kiện cho mặt hàng nông sản của nước xuất khẩu dễ dàng thâm nhập vào thị trường nhập khẩu. Ngược lại, sẽ tạo nên áp lực hạn chế hoạt động xuất khẩu nông sản của quốc gia xuất khẩu. Mặt khác để không gặp phải những khó khăn khi đưa hàng nông sản thâm nhập vào thị trường nước ngoài, các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản cần chủ động tìm hiểu về hệ thống luật pháp, đặc biệt là các quy định về chất lượng và kỹ thuật đối với hàng nông sản. Nếu những quy định này là hợp lý (ví dụ như các quy định về sản phẩm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm) thì các doanh nghiệp buộc phải tuân theo. Ngược lại, nếu những quy định này thiếu hợp lý do quốc gia nhập khẩu muốn bảo hộ ngành sản xuất trong nước thì nước xuất khẩu cần nhanh chóng đàm phán với nước nhập khẩu để rỡ bỏ.
3. Nhu cầu của nước nhập khẩu
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động bán hàng hóa và dịch vụ từ quốc gia này sang quốc gia khác. Vì thế xuất khẩu không chỉ phụ thuộc vào nhóm nhân tố bên trong quốc gia xuất khẩu mà còn phụ thuộc vào những nhân tố thuộc về quốc gia nhập khẩu. Các nhân tố đó là:
Môi trường văn hóa - xã hội của nước nhập khẩu: Môi trường sống, các phong tục tập quán, thói quen…là các nhân tố quyết định đến sở thích, thị hiếu người tiêu dùng. Người tiêu dùng ở các quốc gia khác nhau lại có sở thích và thị hiếu tiêu dùng khác nhau. Doanh nghiệp muốn xuất khẩu hàng nông sản hiệu quả trên từng thị trường thì phải hiểu rõ những sở thích và thị hiếu tiêu dùng đó. Đối với mặt hàng nông sản, đây là mặt hàng phụ thuộc rất nhiều vào khẩu vị và thói quen tiêu dùng, đồng thời nhu cầu về nông sản có thể tăng giảm theo xu hướng tiêu dùng như: tăng sử dụng các loại nông sản có lợi cho sức khỏe, tăng sử dụng nông sản trái vụ, sử dụng nhiều nông sản vì mục đích ăn kiêng…Các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản trước khi xâm nhập vào thị trường nước ngoài cần phải có quá trình tìm hiểu thị hiếu và sở thích người tiêu dùng cùng với những xu hướng tiêu dùng nông sản trên thị trường đó nhằm đáp ứng tốt nhất những yêu cầu của thị trường.
Thu nhập của nước nhập khẩu: Khi thu nhập tăng lên, người tiêu dùng của nước nhập khẩu nông sản sẽ tiêu dùng nhiều hơn do có nguồn tài chính dồi dào hơn. Khi đó, hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng của nước xuất khẩu sẽ có cơ hội tăng lên và ngược lại, khi kinh tế quốc gia nhập khẩu gặp khó khăn sẽ khiến sản lượng cũng như giá trị xuất khẩu của quốc gia xuất khẩu giảm.
Mức độ cạnh tranh: Một thị trường nhập khẩu tiềm năng luôn là đích đến của các quốc gia xuất khẩu. Các nước xuất khẩu nông sản luôn muốn thâm nhập vào các thị trường tiềm năng, vì vậy mà những thị trường này thường có môi trường cạnh tranh khốc liệt. Hiểu rõ những điểm mạnh và điểm yếu của bản thân doanh nghiệp và của đối thủ cạnh tranh, sẽ giúp doanh nghiệp xuất khẩu nông sản có chiến lược cạnh tranh hiệu quả, đồng thời ứng phó kịp thời với những biến động của thị trường.
Ngoài ra còn có những yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến xuất khẩu nông sản như: sự biến động của giá cả, sự biến động thị trường, các dịch vụ đi kèm sản phẩm…Điều quan trọng là chúng ta cần phải nghiên cứu và hiểu rõ tất cả các yếu tố ảnh hưởng đó để có thể hoạch định chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu nông sản sang thị trường nước ngoài một cách hiệu quả nhất./.
Lương Thanh Hải
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại - VIOIT