Hiệp định về Nông nghiệp (AoA) là một trong các hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Nó được ký kết tại Vòng đàm phán Uruguay và có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1995, cũng là ngày mà WTO chính thức đi vào hoạt động. Dưới đây là tổng quan về các vấn đề trong hiệp định nông nghiệp của WTO. Các biện pháp phi thuế quan khác trong khuôn khổ WTO có liên quan đến hàng nông sản
Cộng đồng quốc tế và quốc gia đến nay đã xây dựng được một hệ thống công cụ pháp lý rất đồ sộ để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, trong đó quan trọng nhất là:
1. Bộ Tiêu chuẩn thực phẩm của FAO
Ủy ban tiêu chuẩn thực phẩm CAC (Codex Alimentarius Commision) của Liên Hiệp Quốc do Tổ Chức Lương Thực và Nông Nghiệp (FAO) và Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) đồng thành lập năm 1962 nhằm phối hợp với Tổ Chức Tiêu Chuẩn Hóa Quốc Tế (ISO) nghiên cứu xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn, hướng dẫn và những văn bản quốc tế có liên quan về thực phẩm như bộ qui tắc thực hiện trong khuôn khổ Chương Trình hỗn hợp về tiêu chuẩn thực phẩm của FAO/WHO. Mục tiêu hoạt động của CAC là thực hiện tiêu chuẩn hóa quốc tế trong lĩnh vực thực phẩm nhằm kiểm soát chặt chẽ quá trình nuôi trồng, chế biến, vận chuyển, bảo quản để ngăn chặn tác hại do thực phẩm không đảm bảo chất lượng gây ra. Luật Thực phẩm này gồm 13 chương trong đó chủ yếu đưa ra các tiêu chuẩn và nguyên tắc thực phẩm trong quá trình chế biến sản phẩm, bán sản phẩm, nguồn nguyên liệu cũng như quá trình phân phối tới người tiêu dùng. Luật thực phẩm cũng đưa ra qui định về thực phẩm biến đổi gien, phụ gia thực phẩm, tồn dư hóa chất, sự nhiễm bẩn, dán nhãn, phương thức phân tích và lấy mẫu.
CAC đã công bố được 237 tiêu chuẩn Codex cho các hàng thực phẩm, 41 quy phạm thực hành công nghệ và vệ sinh, 3.274 quy định giới hạn dư lượng tối đa cho phép đối với các chất nhiễm bẩn trong thực phẩm và khoảng 1.000 tài liệu hướng dẫn khác. Giữa CAC và ISO đã có một thỏa thuận chung về phạm vi tiêu chuẩn hóa trong lĩnh vực thực phẩm của hai tổ chức, trong đó ISO chỉ chủ yếu xây dựng các tiêu chuẩn về phương pháp thử còn CAC xây dựng các tiêu chuẩn về yêu cầu cụ thể của sản phẩm. Việc hài hòa tiêu chuẩn thực phẩm ở phạm vi toàn cầu và khu vực trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm thường lấy tiêu chuẩn của CODEX làm chuẩn.
2. Hiệp định về áp dụng các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS)
Đây là Hiệp Định được ký kết tại vòng đàm phán Urugoay của WTO để điều tiết việc áp dụng các quy định liên quan đến vấn đề an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật. Hiệp Định đề cập đến những biện pháp khác nhau được các chính phủ sử dụng để đảm bảo rằng thực phẩm cho người và động vật phải được an toàn, không có độc tố, không bị nhiễm bẩn và các biện pháp bảo vệ sức khỏe cho con người khỏi các côn trùng hoặc bệnh tật do các loại động thực vật mang theo. Tuy nhiên, các thành viên WTO đều phải đảm bảo rằng những biện pháp mà họ áp dụng không tạo ra những trở ngại cho thương mại quốc tế.
+ Mục tiêu của Hiệp Định: là xây dựng những quy định nhằm điều chỉnh quyền phấn đấu đạt mục tiêu đề ra trong công tác bảo vệ sức khỏe của một quốc gia. Chuẩn mực quốc tế là những cơ sở chấp nhận được trong quá trình soạn thảo các qui định quốc gia. Hiệp Định khuyến khích các chính phủ sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế và miễn giải trình đối với hệ thống quy định quốc gia được xây dựng theo những tiêu chuẩn này. Trong trường hợp một quốc gia không muốn áp dụng tiêu chuẩn quốc tế thì quốc gia này phải đáp ứng được những yêu cầu về tính phù hợp của những quy định quốc gia với chuẩn mực quốc tế dựa trên cơ sở chứng minh khoa học. SPS quy định, nếu quy định quốc gia nghiêm ngặt hơn quy định quốc tế thì nước đó phải có “chứng cứ xác thực” chứng minh được tính cần thiết phải duy trì, áp dụng các quy định riêng đó. Khái niệm phân tích rủi ro có vai trò đặc biệt quan trọng trong Hiệp định SPS. Quá trình phân tích gồm nhiều giai đoạn, đặc biệt có giai đoạn đánh giá (Assessment) và giai đoạn quản lý rủi ro (Risk Management). Sản phẩm các nước đang áp dụng các quy định bắt buộc về độ an toàn và sức khỏe, tuân thủ các quy định về vệ sinh dịch tễ gồm: rau và hoa quả tươi, nước quả và các chế phẩm thực phẩm, thịt và các sản phẩm thịt, các sản phẩm sữa, các sản phẩm chế biến.
+ Một số nguyên tắc áp dụng cơ bản của Hiêp Định:
- Các biện pháp áp dụng để bảo vệ con người, động thực vật phải dựa trên các chứng cứ khoa học thông qua các quá trình phân tích rủi ro.
- Các biện pháp SPS chỉ áp dụng tới mức cần để bảo vệ cuộc sống con người và động thực vật, không được tạo ra sự phân biệt đối xử tùy tiện hoặc phi lý giữa các quốc gia thành viên khi họ có điều kiện tương ứng.
- Các quốc gia thành viên được khuyến khích thiết lập các biện pháp trên cơ sở các tiêu chuẩn, quy chế và khuyến nghị quốc tế để hài hòa với các biện pháp vệ sinh an toàn động thực vật được quốc tế thừa nhận. Nhưng họ cũng được thực hiện hoặc duy trì các biện pháp nghiêm ngặt hơn nếu các biện pháp này được dựa trên các chứng minh khoa học.
- Nguyên tắc phân vùng tức là phân loại các vùng không là đối tượng điều chỉnh của Hiệp định trong phạm vi quốc gia. Nguyên tắc không phân biệt đối xử đối với một loại sản phẩm có xuất xứ khác nhau.
- Nguyên tắc ưu tiên áp dụng hệ thống quy định nào gây cản trở ít nhất đối với các hoạt động trao đổi thương mại song vẫn đem lại những kết quả đáp ứng được mục tiêu chung như các hệ thống quy định khác. Nguyên tắc minh bạch, nhất quán của hệ thống quy định, đặc biệt là nghĩa vụ thông báo và tạo điều kiện cho quá trình kiểm tra được tiến hành trong những điều kiện thực tế chấp nhận được.
- Hiệp Định yêu cầu các nước thành viên phải:
- Sử dụng những tiêu chuẩn, hướng dẫn hoặc khuyến nghị quốc tế làm cơ sở cho cho các quy định về SPS của họ.
- Tham gia tích cực vào hoạt động của các tổ chức quốc tế đặc biệt là đạo luật về thực phẩm; Hiệp định bảo vệ thực vật quốc tế nhằm đẩy mạnh việc hài hòa các quy định về SPS trên thế giới.
- Tạo điều kiện cho các đối tác ở những nước khác có cơ hội để đóng góp ý kiến vào dự thảo các tiêu chuẩn nếu chúng không căn cứ trên các quy định tiêu chuẩn quốc tế hoặc các tiêu chuẩn quốc tế được coi là không phù hợp.
- Chấp nhận những biện pháp SPS của các nước xuất khẩu nếu những tiêu chuẩn này đạt mức độ tương tự như mức độ của các nước nhập khẩu.
- Hiệp định quy định các nước kém phát triển nhất có thể hoãn việc thực hiện các điều khoản về nhập khẩu trong vòng 5 năm. Các nước đang phát triển có thể hoãn thực hiện các điều khoản này đến cuối năm 1996.
3. Hiệp định của WTO về hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT)
Hiệp định tập trung vào hai nội dung chính: chuẩn mực kỹ thuật và tiêu chuẩn từ khâu đóng gói, dán nhãn mác hay nhãn hiệu chứng nhận sản phẩm đến các thủ tục kiểm tra quy cách của sản phẩm. Mục đích của Hiệp định là làm sao để các quy định pháp luật, tiêu chuẩn kỹ thuật và quy trình thử nghiệm, công nhận không gây ra những trở ngại không cần thiết cho thương mại.
Hiệp định này nhằm dung hòa hai mục tiêu trái ngược nhau: vừa đảm bảo cho các nhà nước có quyền được tự do bảo vệ an ninh quốc gia, sức khỏe con người, môi trường vừa không gây trở ngại đối với hoạt động thương mại. Đồng thời Hiệp định cũng thừa nhận tiêu chuẩn quốc tế có thể tạo điều kiện cho chuyển giao công nghệ sang các nước đang phát triển song đây cũng có thể là rào cản đối với chính các nước này. Hiệp định tôn trọng quy chế đãi ngộ tối huệ quốc và đối xử quốc gia. Để tránh tình trạng các chuẩn mực đưa ra nhằm bảo hộ mậu dịch, Hiệp định khuyến cáo các thành viên áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế và thông báo cho các thành viên khác những thay đổi trong hệ thống tiêu chuẩn của mình.
4. Hệ thống phân tích tác hại và mức kiểm soát cao nhất HACCP (Hazard Analysis and Critical Control Point)
Đây là công cụ quản lý quy trình sản xuất khép kín những sản phẩm cần được đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm như rau quả, thuốc tân dược…Đối với các loại hàng này không áp dụng tiêu chuẩn chất lượng ISO mà áp dụng hệ thống phân tích tác hại và mức kiểm soát cao nhất HACCP trên cơ sở thực hành sản xuất đúng quy chuẩn. Đối với hàng nông sản như rau quả thì áp dụng quy trình GAP (Good Agricultural Practice), với tân dược là GPP (Good Pharmaceutical Practice), với nuôi trồng thủy sản là BAP (Best Aquaculture Practices). HACCP không phải là hệ thống đơn độc mà phải đồng hành với các chương trình an toàn thực phẩm hiện hành.
5. Thực hành quy trình sản xuất đúng quy chuẩn GMP (Good Manufacturing Practice)
GMP quy định các biện pháp giữ vệ sinh chung cũng như các biện pháp ngăn ngừa thực phẩm bị lây nhiễm do điều kiện vệ sinh trong quy trình sản xuất kém. GMP đề cập đến nhiều mặt hoạt động của xí nghiệp và tập trung vào các thao tác, quy trình sản xuất cụ thể của công nhân. Những nội dung cơ bản của điều kiện thực hành sản xuất tốt GMP bao gồm: các điều kiện về nhà xưởng, phương tiện chế biến, những yêu cầu về kiểm soát vệ sinh nhà xưởng, trang trại, kiểm soát qúa trình chế biến, kiểm soát khâu bảo quản và phân phối cũng như các yêu cầu về con người. Việc kiểm tra các xí nghiệp hoạt động theo HACCP khác với các phương pháp kiểm tra truyền thống để kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm. Các biện pháp truyền thống đánh giá hoạt động chỉ trong những ngày thanh tra. Cách tiếp cận của HACCP và GMP cho phép nhà chức trách xem xét những gì đang xảy ra trong xí nghiệp bằng cách kiểm tra các sổ nhật ký theo dõi giám sát mọi hành động của công nhân trong qúa trình sản xuất. Phương pháp HACCP và GMP áp dụng khá phổ biến cho sản xuất ở các trang trại trồng rau, hoa quả, chế biến thủy hải sản…Có thể nói đây là biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm hữu hiệu hiện nay. Nó khắc phục được xu thế chỉ nhìn nhận vào lỗi của thành phẩm mà chuyển sang chủ động phòng ngừa trong suốt quá trình hình thành sản phẩm.
6. Công ước Bảo vệ thực vật (IPPC) và các tiêu chuẩn về kiểm dịch thực vật (ISPM)
Đây là các Công ước quốc tế để cùng nhau thực hiện những hành động chung có hiệu quả nhằm ngăn ngừa sự lây lan của các loài sâu bệnh trên thực vật và sản phẩm từ thực vật.
Vệ sinh an toàn thực phẩm là vấn đề được cộng đồng quốc tế hết sức quan tâm và đã cùng nhau xây dựng các chuẩn mực quốc tế nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong mọi hoạt động buôn bán xuất nhập khẩu quốc tế hàng nông thủy sản, ngăn ngừa sự lây lan dịch bệnh hoặc sử dụng tùy tiện các chất phụ gia trong sản xuất chế biến thực phẩm. Trên đây là những chế định quốc tế cơ bản trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm hàng nông, lâm, thủy sản mà các nước phải có nghĩa vụ tuân thủ. Các quốc gia có quyền đưa ra những tiêu chuẩn của riêng mình nhưng mọi quy định quốc gia phải phù hợp với những tiêu chuẩn quốc tế. Nếu vì điều kiện cụ thể mà tiêu chuẩn có thể khác hoặc khắt khe hơn nhưng phải được chứng minh bằng những phân tích, thử nghiệm khoa học xác đáng được các nước thừa nhận.
Lương Thanh Hải
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại - VIOIT