1. Cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần
Toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới thúc đẩy giao thương giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ phát triển mạnh mẽ, tất yếu kéo theo những nhu cầu mới về vận tải, kho bãi và các dịch vụ phụ trợ dẫn đến bước phát triển của logistics. Logistics ban đầu là hợp phần chiến lược trong quản lý ở cấp công ty - các đơn vị cơ cơ sở sản xuất và thị trường phân bố rộng khắp toàn cầu. Hiện nay, logistics đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Về lý thuyết, có thể xác định hệ thống logistics bao gồm các thành phần cơ bản là cơ sở hạ tầng kỹ thuật, các dịch vụ hậu cần, và quy trình, thể chế. Các thành tố này gắn kết chặt chẽ với nhau và đóng vai trò quan trọng trong thương mại quốc gia (Jan và cộng sự, 2011).
Cơ sở hạ tầng là những yếu tố liên quan đến chất lượng thương mại vận tải bao gồm nhà cảng đường sông/ biển nhằm phục vụ vận tải đường sông, biển; cảng hàng không phục vụ vận tải hàng không, đường bộ và đường sắt nhằm đáp ứng nhu cầu vận tải đường bộ. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật có vai trò quan trọng trong phát triển thương mại một quốc gia. Xây dựng hệ thống cảng biển phải đáp ứng các tiêu chí như: hợp lý về vị trí, quy mô, đảm bảo tính hiện đại, phù hợp với thực tế. Đảm bảo hệ thống trang thiết bị phục vụ cảng biển, đặc biệt hướng tới vận tải container (Nguyễn Thu Thuỷ, 2014).
Xây dựng hệ thống kho bãi chuyên dụng cho các nhóm hàng chiến lược. Đầu tư phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, vốn là yếu tố cốt lõi, đóng vai trò huyết mạch thúc đẩy sự phát triển hiệu quả của các dịch vụ logistic bao gồm mạng lưới thông tin phục vụ sản xuất kinh doanh, trao đổi dữ liệu điện tử, hệ thống kê khai hải quan điện tử - nhằm thúc đẩy gửi hàng (xuất nhập khẩu) tại cảng thường là yêu cầu đầu tiên để cung cấp dịch vụ hoàn thiện hơn trên thị trường (Jan và cộng sự, 2011).
Bên cạnh cơ sở hạ tầng dịch vụ hậu cần đóng vai trò không nhỏ trong thuận lợi hoá thương mại. Theo đó, dịch vụ hậu cần Logistics là “một phần của quá trình chuỗi cung ứng nhằm thực hiện kế hoạchvà kiểm soát hiệu quả quá trình vận chuyển và lưu trữ hàng hóa, dịch vụ hoặc thông tin từ điểm xuất xứ đến điểm tiêu thụ để đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng” (Souza và cộng sự, 2007). Dịch vụ logistics là một chuỗi các hoạt động có liên quan để đảm bảo việc lưu chuyển hiệu quả của đầu vào của sản xuất và các sản phẩm đầu ra. Công ty chuyên về dịch vụ hậu cần được gọi là các nhà cung cấp dịch vụ hậu cần bên thứ ba (third-party logistics service providers - 3PLs), cung cấp những dịch vụ như tư vấn chuỗi cung ứng, quản lý giao thông vận tải (ví dụ như kho bãi, xếp dỡ hàng hóa, và làm dịch vụ thông quan), vận tải hàng hóa và dịch vụ giao hàng. Sự phát triển của công nghệ thông tin đã đem lại nhiều ứng dụng và tiện tích cho sự phát triển của ngành dịch vụ logistics (Jan và cộng sự, 2011). Một số công nghệ điển hình được sử dụng trong dịch vụ hậu cần là:
Thứ nhất, công nghệ không dây (RFID) là kỹ thuật nhận dạng đối tượng bằng sóng vô tuyến. Kỹ thuật RFID có liên quan đến hệ thống không dây cho phép một thiết bị dọc thông tin được chứa trong một chip không tiếp xúc trực tiếp ở khoảng cách xa, mà không thực hiện bất kỳ giao tiếp vật lý nào hoặc yêu cầu một sự nhìn thấy giữa hai cái. Nó cho phép truyền và nhận dữ liệu từ một điểm đến điểm khác.
Thứ hai, hệ thống quản lý bán hàng online. Đây là hệ thống tích hợp các chức năng nghiệp vụ cần thiết cho tổ chức có nhu cầu thực hiện các chức năng quản lý, bán hàng online.
Thứ ba, hệ thống quản lý kho. Hệ thống này là một phần quan trọng của chuỗi cung ứng và chủ yếu nhằm mục đích kiểm soát sự chuyển động và lưu trữ các sản phẩm trong một nhà kho và các giao dịch liên quan, bao gồm cả vận chuyển, tiếp nhận và chọn.
Thứ tư, quản trị vận tải. Phần mềm quản lý vận tải được thiết kế dựa vào yêu cầu quản lý đặc thù ngành vận tải, quản lý chi phí dịch vụ vận chuyển. Quy trình nghiệp vụ quản lý đặc thù của ngành vận tải, quản lý chi phí dịch vụ vận chuyển. Quy trình nghiệp vụ quản lý từ khâu đặt hàng đến kết thúc quá trình giao nhận. Cụ thể phần mềm này sẽ hỗ trợ quản lý và điểu hành vận tải hàng hoá trên các tuyếnđã được xác lập sẵn, cho phép doanh nghiệp theo dõi tình trạng của từng xe, tuyếnđi, các loại chi phí trên đường. Đồng thời nó cho phép các nhà quản lý theo dõi tình hình kinh doanh mọi lúc mọi nơi.
Nhìn chung, cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần có mối quan hệ hữu cơ, gắn kết tác động đáng kể tới thuận lợi hoá thương mại. Cơ sở hạ tầng được xem như nền tảng để hình thành và phát triển dịch vụ hậu cần.
2. Thể chế các quy định pháp lý trong đó có các quy định hải quan
Trong quá trình hình thành và phát triển, chính sách thương mại quốc tế của mỗi quốc gia được xây dựng và thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau tuỳ vào chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn nhất định. Tuy nhiên, vào bất kỳ thời điểm nào thì các nước đều có những thể chế bao gồm các quy định pháp lý bắt buộc nhằm bảo vệ nền kinh tế trong nước. Chính sách thương mại góp phần bảo hộ hợp lý nền sản xuất nội địa tránh sự xâm nhập mạnh mẽ của các hàng hóa và dịch vụ nước ngoài, hạn chế cạnh tranh bất lợi cho doanh nghiệp trong nước (Greaney, 1996). Căn cứ vào mức độ bảo hộ có thể phân loại chính sách thương mại quốc tế thành hai hình thức phổ biến là chính sách bảo hộ mậu dịch và chính sách mậu dịch tự do. Mỗi loại có tác động nhất định đến thương mại hoá của quốc gia.
Chính sách bảo hộ mậu dịch.
Chính phủ áp dụng chính sách bảo hộ mậu dịch nhằm bảo vệ hợp pháp thị trường nội địa bằng các biện pháp: chính sách thuế nhập khẩu, hạn ngạch, phí hải quan, cấm nhập khẩu nhằm hạn chế sự cạnh tranh bất lợi cho doanh nghiệp trong nước, ổn định thị trường nội địa, ngăn chặn sự xâm lấn của hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài làm doanh nghiệp trong nước mất chỗ đứng. Rào cản thuế quan và phi thuế quan là những công cụ đắc lực trong chính sách kinh tế của các quốc gia.
Tuy nhiên chính sách bảo hộ mậu dịch tác động tiêu cực tới thuận lợi hoá thương mại quốc gia. Chính sách này làm hạn chế cơ hội cạnh tranh quốc tế, khiến các doanh nghiệp được bao bọc dẫn tới ỉ lại, thiếu động lực để phát triển. Về lâu dài chính sách này sẽ khiến nền kinh tế ì ạch và kém năng động.
Chính sách mậu dịch tự do.
Có thể nói tự do hoá thương mại là xu hướng phát triển tất yếu của nền kinh tế toàn thế giới vì những lợi ích không thể phủ nhận mà nó mang lại cho nền kinh tế mỗi quốc gia. Đều sử dụng công cụ đắc lực “thuế quan” nhưng khác với chính sách bảo hộ mậu dịch, tự do hoá thương mại cắt bỏ những rào cản thuế quan và phi thuế quan trong quan hệ thương mại quốc tế. Chính phủ các nước không phân biệt hàng hoá nội địa với hàng hoá nước ngoài trên thị trường nước mình nhằm tạo cơ hội cạnh tranh quốc tế cho các doanh nghiệp trong nước, đẩy mạnh hoạt động thương mại giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ.
Chính sách thương mại với các quy tắc chặt chẽ, minh bạch, phù hợp với xu hướng phát triển chung của thế giới và phù hợp với đặc điểm riêng trong nước sẽ tạo điều kiện để thúc đẩy xuất nhập khẩu, tăng thu ngoại tệ từ xuất khẩu (Gandolfo, 2014). Việc điều chỉnh, bổ sung nhằm tiếp tục hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế cũng như các biện pháp thực hiện chính sách thương mại quốc tế tựu chung lại đều phải tuân thủ 4 nguyên tắc cơ bản sau đây:
Thứ nhất, nguyên tắc ưu đãi hơn đối với các quốc gia đang phát triển
Hệ thống ưu đãi phổ cập GSP là kết quả của cuộc đàm phán liên chính phủ được tổ chức dưới sự bảo trợ của hội nghị Thương mại và Phát triển của Liên hợp quốc (UNCTAD). Các quốc gia đang phát triển còn gặp hạn chế với quy mô nền kinh tế nhỏ, số lượng mặt hàng xuất khẩu còn ít, dễ bị tổn thương trước những cú sốc từ điều kiện thương mại bên ngoài. Ưu đãi thuế quan là một phần nhỏ giúp các nền kinh tế nghèo hơn tăng cường sự hiện diện của họ trong thị trường toàn cầu và cho phép các nước này có quyền quyết định đối với thị trường nội địa của mình.
Thứ hai, nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc
Nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc là một trong những nguyên tắc không phân biệt đối xử trong thương mại. Với nguyên tắc này, các bên tham gia vào thương mại quốc tế cam kết đối xử ngang bằng với các quốc gia khác nhau. Như vậy, đối với các thành viên của 2 Hiệp định này, tất cả các ưu đãi, miễn giảm về bất kỳ khoản phí nào liên quan tới hoạt động xuất nhập khẩu và các khoản thuế mà một bên tham gia đã đang hoặc sẽ dành cho bất kỳ một bên thứ ba nào thì sẽ được dành không kém cho bên tham gia kia một cách vô điều kiện. Chế độ MFN được áp dụng bình đẳng cho tất cả các quốc gia thành viên.
Thứ ba, nguyên tắc đãi ngộ quốc gia
Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia quy định về sự đối xử công bằng của các quốc gia đối với hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu từ nước ngoài và hàng hóa, dịch vụ trong nước. Theo đó, Hàng hóa nước ngoài được hưởng mọi ưu đãi về thuế trong nước,cũng như các khoản phí tiêu thụ, các luật lệ như hàng hóa cùng loại sản xuất trong nước. Chế độ đãi ngỗ quốc gia cũng được quy định rõ ràng đối với hàng hóa và dịch vụ tại Điều III, hiệp định GATT (1994) và điều XVII hiệp định GATS. Lợi ích của nguyên tắc này là giúp hàng hóa được tự do lưu thông trong một quốc gia, không phân biệt xuất xứ trong nước hay ngoại nhập, điều này giúp tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước đối với nước ngoài nếu không muốn bị chiếm thị trường.
Thứ tư, nguyên tắc mở cửa thị trường.
Nguyên tắc “mở cửa thị trường” hay còn gọi là tiếp cận thị trường thực chất là mở cửa thị trường cho hàng hóa, dịch vụ và đầu tư nước ngoài. Trong hệ thống thương mại đa biên, khi tất cả các bên tham gia đều chấp nhận mở cửa thị trường của mình thì điều đó đồng nghĩa với việc tạo ra một hệ thống thương mại toàn cầu mở. Về mặt chính trị, tiếp cận thị trường thể hiện nguyên tắc tự do hóa thương mại của WTO. Về mặt pháp lý, tiếp cận thị trường thể hiện nghĩa vụ có tính chất ràng buộc thực hiện những cam kết về mở cửa thị trường mà nước này đã chấp thuận khi đàm phán gia nhập WTO.
Thứ năm, nguyên tắc minh bạch trong thương mại.
Nguyên tắc này WTO quy định các nước thành viên có nghĩa vụ phải bảo đảm tính ổn định rõ ràng và có thể dự báo được trong thương mại quốc tế, có nghĩa là các chính sách, luật pháp về thương mại quốc tế phải rõ ràng, minh bạch, phải thông báo mọi biện pháp đang áp dụng cho thương mại quốc tế. Các quốc gia không thể đơn phương tăng thuế nhập khẩu, mà chỉ có thể tăng thuế nhập khẩu sau đã tiến hành đàm phán lại và đã đền bù thỏa đáng cho lợi ích của các bên bị thiệt hại do chính sách tăng thuế đó. Nguyên tắc này tạo sự ổn định cho môi trường kinh doanh thương mại quốc tế.
3. Yếu tố liên quan đến chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng
Một sản phẩm khi đưa ra thị trường là kết tinh của chuỗi các hoạt động làm tăng giá trị của sản phẩm. Các công đoạn tạo ra giá trị cho sản phẩm, dịch vụ không chỉ dừng lại ở cung cấp nguyên vật liệu đầu vào, sản xuất, phân phối mà còn cả khâu nghiên cứu, phát triển, thiết kế, cung cấp dịch vụ sau sử dụng, thanh lý và tái chế. Giá trị sản phẩm không chỉ là kết tinh của lao động, vốn hay đất đai mà giờ đây là công nghệ, trí tuệ, thương hiệu đang đóng vai trò hết sức quan trọng đối với giá trị sản phẩm. Giá trị gia tăng mà doanh nghiệp thu về không còn tập trung trong khâu sản xuất mà chuyển sang công đoạn có hàm lượng sáng tạo cao. Hiện nay, tên gọi “chuỗi giá trị” xuất hiện và được coi là đặc tính của thương mại quốc tế ngày nay.
Như vậy, chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị là một trong ba yếu tố quan trọng tác động trực tiếp tới thuận lợi hoá thương mại. Hiện nay, toàn cầu hoá kéo theo đó là xuất hiện các chuỗi cung ứng và giá trị toàn cầu, mỗi nước là một trong những mắt xích trong từng chuỗi đó. Để phát huy tính hiệu quả của từng chuỗi buộc các nước cần chủ động trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất mới có thể tận dụng được tối đa lợi thế của mình. Mức độ tác động tới các nước là khác nhau tuỳ vào cơ sở hạ tầng, thể chế của từng quốc gia có phù hợp vàđápứng được nhu cầu phát triển hiện tại hay không.
Ths .Lương Thanh Hải
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại - VIOIT