NGHIÊN CỨU

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Nghiên cứu

Những vấn đề về nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường nội địa: môi trường cạnh tranh bán lẻ và xu hướng cạnh tranh trong ngành bán lẻ (Phần 2)

20/12/2022

Môi trường cạnh tranh bán lẻ và xu hướng cạnh tranh trong ngành bán lẻ

1. Môi trường cạnh tranh bán lẻ

Theo danh mục CPC và được các nước thành viên WTO sử dụng làm cơ sở cho việc đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ vụ phân phối, bán lẻ là một trong 4 phân ngành dịch vụ trong ngành dịch vụ phân phối. Theo Hệ thống phân ngành kinh tế của Việt Nam được xây dựng theo phân ngành chuẩn quốc tế (ISIC phiên bản 4.0 đã được Ủy ban Thống kê Liên hợp quốc thông qua tại kỳ họp tháng 3 năm 2006 chi tiết đến 4 chữ số - ISIC Rev.4) thì bán lẻ cũng là một phân ngành cấp 2 trong ngành bán buôn, bán lẻ và sửa chữa ô tô, xe máy. Do đó, môi trường cạnh tranh bán lẻ được hiểu là môi trường cạnh tranh trong ngành bán lẻ.

Về lý thuyết, Michael Porter đã đưa ra mô hình 5 lực lượng để phân tích môi trường ngành (đối với mọi ngành sản xuất kinh doanh).

Sơ đồ: Mô hình 5 lực lượng cạnh tranh của Michael Porter



Vận dụng mô hình trên để phân tích môi trường ngành bán lẻ, cụ thể:

 + Áp lực cạnh tranh của nhà cung cấp đối với các nhà bán lẻ:

Các nhà cung cấp cho các nhà bán lẻ, bao gồm: các nhà sản xuất, các nhà nhập khẩu hàng tiêu dùng, các nhà cung cấp nguyên vật liệu (bao bì, thiết bị,…), các nhà cung cấp dịch vụ (vận tải, ngân hàng, dịch vụ công…). Cũng như các ngành khác, nhà cung cấp sẽ gây áp lực nhất định đối với các nhà bán lẻ nếu họ có quy mô, sự tập hợp và việc sở hữu các nguồn hàng khan hiếm. Ngược lại, những nhà cung cấp các hàng hóa tiêu dùng thông thường, qui mô nhỏ (nông dân, thợ thủ công.... ) sẽ có rất ít quyền lực đàm phán trước các nhà bán lẻ, mặc dù họ có số lượng lớn. Số lượng nhà cung cấp sẽ quyết định đến áp lực cạnh tranh, quyền lực đàm phán của họ. Nếu trên thị trường chỉ có một vài nhà cung cấp có quy mô lớn sẽ tạo áp lực cạnh tranh, ảnh hưởng tới toàn bộ hoạt động của ngành bán lẻ.

+ Áp lực cạnh tranh từ khách hàng (người tiêu dùng cuối cùng):

Khách hàng của các nhà bán lẻ là tập hợp người tiêu dùng có sự khác nhau về thu nhập, văn hóa và tập quán mua sắm, tâm lý, sự hiểu biết về hàng hóa,… Thông thường, những khách hàng có thu nhập cao, có kiến thức về hàng hóa… sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh lớn hơn đối với các nhà bán lẻ. Có thể nói rằng, về cơ bản, khi mức thu nhập, trình độ hiểu biết của người mua (người tiêu dùng cuối cùng) được cải thiện sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh lớn hơn và gây ảnh hưởng trực tiếp tới toàn bộ hoạt động nhà bán lẻ.

+ Áp lực cạnh tranh từ các nhà bán lẻ tiềm ẩn:

Theo M-Porter, đối thủ tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện chưa có mặt trên trong ngành nhưng có thể ảnh hưởng tới ngành trong tương lai. Đối với ngành bán lẻ, các thủ tiềm ẩn là khá nhiều do các yếu tố sau: sức hấp dẫn của ngành bán lẻ có xu hướng gia tăng cùng với triển vọng tăng trưởng kinh tế, gia tăng dân số,…; những rào cản gia nhập ngành bán lẻ có liên quan đến vấn đề kỹ thuật, vốn, các yếu tố thương mại, các nguồn lực đặc thù (nguyên vật liệu đầu vào, phát minh sáng chế, nguồn nhân lực, sự bảo hộ của chính phủ ....) không nhiều và không lớn.

+ Áp lực cạnh tranh từ sản phẩm thay thế:

Các nhà bán lẻ thực hiện chức năng bán lại hàng hóa và cung cấp dịch vụ kèm theo cho người tiêu dùng. Trong đó, sản phẩm chủ yếu của nhà bán lẻ chính là các dịch vụ được họ cung cấp cho người tiêu dùng. Do đó, áp lực cạnh tranh chủ yếu của sản phẩm thay thế trong ngành bán lẻ chủ yếu là dịch vụ bán hàng và dịch vụ có liên quan nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng. Ví dụ, dịch vụ bán hàng online, cung cấp thông tin về sản phẩm qua mạng… Các yếu tố khác như sự thay đổi của môi trường văn hóa, chính trị, công nghệ cũng sẽ ảnh hưởng tới áp lực cạnh tranh từ sản phẩm thay thế.

+ Áp lực cạnh tranh nội bộ ngành bán lẻ:

Các doanh nghiệp đang kinh doanh bán lẻ sẽ cạnh tranh trực tiếp với nhau tạo nên một, mức độ, cường độ cạnh tranh nhất định trong ngành bán lẻ. Trong ngành bán lẻ, các yếu tố làm gia tăng sức ép cạnh tranh nội bộ ngành bao gồm: Nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng đa dạng; Tốc độ tăng trưởng doanh thu trong ngành bán lẻ luôn ở mức khá cao; Số lượng các doanh nghiệp trong ngày gia tăng do xu hướng mở cửa thị trường và các qui định liên quan đến tiếp cận thị trường bán lẻ; Cấu trúc của ngành thay đổi theo mức độ phát triển của mỗi quốc gia. Tại các nước đang phát triển, cấu trúc của ngành bán lẻ vẫn phổ biến là các loại hình bán lẻ truyền thống, nhưng đang có sự thay thế mạnh mẽ bởi các loại hình bán lẻ hiện đại; Các rào cản rút lui (Exit Barries) khỏi thị trường của các doanh nghiệp bán lẻ không lớn. Ví dụ, một trong những yếu tố cản trở doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là vốn đầu tư xây dựng cơ sở bán lẻ, thì hiện nay các doanh nghiệp bán lẻ thường chọn phương thức thuê mặt bằng bán lẻ thay vì đầu tư xây dựng các cơ sở bán  lẻ.

Nhìn chung, phân tích môi trường cạnh tranh bán lẻ cho thấy một số đặc điểm chính của môi trường cạnh tranh bán lẻ là:

- Mức độ cạnh tranh (Degree of Rivalry) trong ngành bán lẻ phụ thuộc vào trình độ phát triển của mỗi nền kinh tế. Mức độ cạnh tranh trong ngành bán lẻ ở các nền kinh tế phát triển sẽ cao hơn so với các nền kinh tế đang và kém phát triển. Tại các nước đang và kém phát triển, mức độ cạnh tranh trong ngành bán lẻ thấp do: 1) Tỷ lệ tập trung trong ngành bán lẻ ở các nước đang và kém phát triển thấp hơn. Trong ngành bán lẻ thường có nhiều doanh nghiệp, nhất là các hộ kinh doanh cá thể tham gia, trong đó không có đối thủ nào chiếm thị phần đáng kể; 2) Với sự đông đảo của các doanh nghiệp trong ngành và sự đa dạng của các nguồn hàng cung ứng,… các doanh nghiệp bán lẻ thường khó lựa chọn các động thái cạnh tranh như: Thay đổi giá bán lẻ; Tăng sự khác biệt của hàng hóa;… Trong khi đó, tại các nước phát triển, mức độ cạnh tranh trong ngành bán lẻ cao hơn do các nhà bán lẻ có qui mô lớn  tham gia hội nhập theo chiều dọc hoặc xây dựng kênh phân phối lớn để làm chủ thị trường ở một số mặt hàng nào đó. Hoặc, các nhà bán lẻ xây dựng mối quan hệ với các nhà cung cấp và yêu cầu các nhà cung cấp phải đáp ứng các yêu cầu về chỉ số kỹ thuật, các tiêu chuẩn chất lượng cao và và giá sản phẩm theo yêu của họ.

- Cường độ cạnh tranh trong ngành bán lẻ phụ thuộc các đặc điểm ngành. Những đặc điểm làm tăng tính cạnh tranh trong ngành bán lẻ, bao gồm: 1) Số lượng doanh nghiệp lớn làm tăng tính cạnh tranh, nhất là khi trong ngành có nhiều doanh nghiệp bán lẻ có thị phần tương đương nhau; 2) Xu hướng vòng đời sản phẩm ngắn lại cũng làm tăng tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị trường bán lẻ, nhất là ở giai đoạn nhu cầu thị trường tăng trưởng cao; 3) Xu hướng gia tăng cung cấp dịch vụ cho người mua làm gia tăng chi phí cố định của các doanh nghiệp bán lẻ. Khi chi phí cố định tăng lên, các doanh nghiệp bán lẻ phải gia tăng doanh số và vì thế phải tranh giành thị phần, dẫn đến cường độ cạnh tranh tăng lên; 4) Trong ngành bán lẻ, các doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ các sản phẩm dễ hư hỏng, hoặc chi phí dự trữ lưu thông cao (thường là với các mặt hàng thực phẩm) cũng sẽ làm gia tăng tính cạnh tranh; 5) Người mua dễ dàng chuyển hành vi mua sắm từ cơ sở bán lẻ này này sang cơ sở bán lẻ khác cũng làm tăng tính cạnh tranh do doanh nghiệp bán lẻ phải cố gắng để giữ chân khách hàng; 6) Thông thường, hàng hóa bán ra ở các cơ sở bán lẻ cùng ngành hàng tiêu dùng và dịch vụ do nhà bán lẻ cung cấp cho người mua có sự tương đồng nhau. Nói cách khác, sự khác biệt giữa các cơ sở bán lẻ trong cùng một ngành hàng tiêu dùng, cùng một loại hình bán lẻ khá thấp. Đặc điểm này luôn dẫn đến mức độ cạnh tranh cao.

2. Các yếu tố cơ bản tác động đến môi trường cạnh tranh bán lẻ của quốc gia

Môi trường cạnh tranh bán lẻ, như đã đề cập trên đây, bao gồm 5 lực lượng tạo ra áp lưc cạnh tranh khác nhau. Mỗi lực lượng này chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi nhiều yếu tố kinh tế, thể chế-pháp luật, văn hóa - xã hội, kỹ thuật khác nhau. Cụ thể, các tố chủ yếu tác động đến môi trường cạnh tranh bán lẻ bao gồm:

a/ Các yếu tố thể chế - luật pháp:

Mỗi quốc gia có khung khổ pháp lý khác nhau đối với ngành dịch vụ phân phối nói chung và phân ngành bán lẻ nói riêng. Trong các nền kinh tế thị trường, chính phủ thường không trực tiếp tham gia vào ngành dịch vụ bán lẻ thông qua hình thức sở hữu trực tiếp. Tuy nhiên, ngành bán lẻ là đối tượng của nhiều qui định nhằm hạn chế kinh doanh ở những cấp độ khác nhau. Các qui định này có thể phân thành 5 loại:

- Các qui định hạn chế về địa điểm để giảm thiểu các ảnh hưởng về không gian, môi trường. Các qui định này tác động đến môi trường cạnh tranh bán lẻ ở góc độ làm hạn chế các đối thủ tiềm ẩn tại một khu vực địa lý nhất định.

- Các qui định về kiểm soát giá cả để bảo vệ người tiêu dùng sẽ tác động đến môi trường cạnh tranh bán lẻ ở góc độ làm hạn chế mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành bán lẻ.

- Luật cạnh tranh để ngăn chặn độc quyền cũng sẽ tác động đến môi trường cạnh tranh bán lẻ ở góc độ làm hạn chế cường độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành bán lẻ.

- Kiểm soát sự gia nhập của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để bảo đảm sự ổn định của thị trường có tác động đến tốc độ gia tăng doanh nghiệp trong ngành bán lẻ.

- Các qui định cấp phép kinh doanh và kiểm tra điều kiện để đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng có tác động số lượng doanh nghiệp trong ngành.

b/ Các yếu tố về kinh tế:

Tình trạng của nền kinh tế, các chính sách kinh tế vĩ mô (tăng trưởng kinh tế, lãi suất, lạm phát, tiền lương cơ bản, các chiến lược phát triển kinh tế của chính phủ, các chính sách ưu đãi cho các ngành (thuế, trợ cấp....), triển vọng kinh tế trong tương lai... đều có tác động đến môi trường cạnh tranh của các ngành kinh tế trong đó có ngành bán lẻ. Tác động cụ thể của một số yếu tố kinh tế vĩ mô như:

- Tăng trưởng kinh tế có tác động trực tiếp đến thu nhập của người tiêu dùng và qua đó tác động đến áp lực cạnh tranh từ khách hàng.

- Lãi suất có tác động trực tiếp đến chi phí vốn của mọi doanh nghiệp trong nêng kinh tế, qua đó tác động đến cả 5 lực cạnh tranh trong ngành bán lẻ. Ví dụ, khi chi phí vốn thấp, các doanh nghiệp bán lẻ có thể sẽ gia tăng các dịch vụ cung cấp cho khách hàng và ngược lại. Hoặc, lãi suất cao sẽ làm tăng áp lực cạnh tranh từ nhà cung cấp.

- Chính sách thuế có tác động trực tiếp đến lợi nhuận của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp bán lẻ nói riêng, qua đó cũng tác động đến 5 áp lực cạnh tranh trong ngành bán lẻ.

- Tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế, khi tỷ lệ làm phát cao các doanh nghiệp trong nền kinh tế đều có mong muốn thu hồi vốn nhanh, đồng thời người tiêu dùng cũng gia tăng các khoản chi tiêu mua sắm. Qua đó, làm phát cao sẽ làm tăng áp lực cạnh tranh trong ngành bán lẻ.

c/ Các yếu tố văn hóa - xã hội:

Mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ đều có những giá trị văn hóa và các yếu tố xã hội đặc trưng. Những yếu tố này thường gắn liền với lực lượng lao động, cơ sở hạ tầng, tập quán kinh doanh, tập quán tiêu dùng tại các khu vực khác nhau. Trong đó, yếu tố cơ sở hạ tầng (hệ thống đường giao thông, sân bay, bến cảng, điện lực, viễn thông, các dịch vụ về lao động, tài chính, công nghệ... và chất lượng các dịch vụ) là những yếu tố quan trọng liên quan trực tiếp đến chi phí, hiệu quả kinh doanh hoặc rủi ro đối với các doanh nghiệp bán lẻ. Các đặc điểm về xã hội (tuổi  thọ trung bình, tình trạng sức khỏe, thu nhập trung bình, phân phối thu nhập, điều kiện sống, tâm lý tiêu dùng, thói quen mua sắm, lối sống…) có tác động trực tiếp nhu cầu mua sắm và tiêu dùng của người dân và có tác động đến phạm vi, mức độ và chất lượng dịch vụ của các nhà bán lẻ.

Nhìn chung, các yếu tố văn hóa - xã hội gắn liền với người mua (người tiêu dùng cuối cùng) có ảnh hưởng trực tiếp đến áp lực cạnh tranh từ khách hàng trong ngành bán lẻ và trong chừng mực nào đó có tác động đến áp lực cạnh tranh từ sản phẩm dịch vụ bán lẻ thay thế. Mặt khác, các yếu tố văn hóa, xã hội gắn với hoạt động kinh doanh bán lẻ lại có tác động chủ yếu đến áp lực cạnh tranh trong ngành.

d/ Yếu tố công nghệ:

Ngày nay, hàng loạt các công nghệ mới được ra đời và được tích hợp vào các sản phẩm, dịch vụ. Đặc biệt, lĩnh vực công nghệ thông tin, internet tác động đến hoạt động kinh doanh ngày càng mạnh mẽ hơn. Trong ngành dịch vụ phân phối, thương mại điện tử có ảnh hưởng mạnh mẽ, trong đó có ngành bán lẻ. (Định nghĩa thương mại điện tử theo nghĩa rộng bao gồm việc quảng cáo sản phẩm, đặt mua và thanh toán qua mạng điện tử).

Nhìn chung, các yếu tố công nghệ đã và đang tác động manh mẽ đến môi trường cạnh tranh bán lẻ ở cả 5 áp lực cạnh tranh trong ngành. Ví dụ, phương thức bán hàng qua mạng làm thay đổi các dịch vụ truyền thống mà các cơ sở bán lẻ cung cấp cho khách hàng, hoặc ứng dụng người máy trở thành nhân viên bán hàng làm tăng tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bán lẻ...  

e/ Ngoài các yếu tố cơ bản trên, xu hướng toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại trong lĩnh vực dịch vụ đang trở thành một yếu tố tác động mạng mẽ đến môi trường cạnh tranh trong nước nói chung và ngành bán lẻ nói riêng.

Nhìn chung, yếu tố này có tác động trực tiếp đến môi trường cạnh tranh bán lẻ ở những khía cạnh như:

- Tác động trực tiếp đến áp lực cạnh tranh từ các nhà cung cấp trong ngành ngành bán lẻ của mỗi nước.

Quá trình hội nhập sẽ khiến các rào cản về thương mại (thuế và phi thuế) sẽ dần dần được gỡ bỏ, các doanh nghiệp có cơ hội buôn bán với các đối tác cả trong và ngoài nước, đồng thời các doanh nghiệp phải điều chỉnh các nguồn cung phù hợp với các lợi thế so sánh, phân công lao động của khu vực và của thế giới. Ở phạm vi quốc tế, các mạng lưới sản xuất/phân phối bao gồm các chuỗi sản xuất theo chiều dọc mở rộng khắp các quốc gia trong khu vực và toàn cầu. Các mạng lưới này có sự tham gia của nhiều quốc gia với mức thu nhập khác nhau. Chính những khác biệt về giá và các lợi thế địa điểm sẽ được tận dụng hiệu quả để hình thành các mạng lưới kinh doanh theo chiều dọc. Ngoài ra, các mạng lưới này còn chứa đựng các mối quan hệ trong và ngoài công ty. Ở mỗi quốc gia, giữa các công ty đa quốc gia (MNEs) và các công ty trong nước hình thành các mối quan hệ liên kết phức tạp. Do đó, các mạng lưới này đã trở thành một bộ phận quan trọng trong từng nền kinh tế và cả khu vực. Các mạng lưới này đang trở thành lực lượng cung cấp hàng hóa cho các doanh nghiệp bán lẻ ở mỗi nước cũng như trên phạm vi khu vực và thế giới.

- Tác động trực tiếp đến áp lực cạnh tranh nội bộ ngành bán lẻ của mỗi nước.

Trong xu hướng toàn cầu hóa và mở cửa thị trường, các tập đoàn bán lẻ xuyên quốc gia đang ngày càng tích cực xâm nhập và thiết lập cơ sở bán lẻ ở thị trường các nước, nhất là các thị trường bán lẻ có sức hấp dẫn lớn. Sự hiện diện của các doanh nghiệp FDI trong ngành bán lẻ của một nước làm gia tăng các doanh nghiệp có qui mô lớn, nâng cao trình độ kinh doanh bán lẻ.

3. Xu hướng cạnh tranh trên thị trường bán lẻ thế giới

Ngày nay, do tác động của hàng loạt các yếu tố như đã nêu trên đây, đặc biệt là yếu tố công nghệ và toàn cầu hóa, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường đang diễn ra theo một số xu hướng sau:

Một là, cạnh tranh bán lẻ đang vượt quá phạm vi không gian lãnh thổ của mỗi quốc gia và trong phạm vi mỗi quốc gia thì cạnh tranh trên thị trường bán lẻ cũng ngày càng mang tính toàn cầu.

Quốc tế hóa ngành bán lẻ tuy vẫn là một xu hướng tương đối mới, nhưng là xu thế không thể đảo ngược. Ngày nay, các thành viên của WTO đều đã ký cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ phân phối. Mặc dù, hầu hết các nền kinh tế vẫn đưa ra những cam kết, qui định hạn chế tiếp cận thị trường và phạm vi hoạt động dịch vụ phân phối nói chung và bán lẻ nói riêng đối với các nhà phân phối nước ngoài. Tuy nhiên, xu thế gia tăng đầu tư trực tiếp  ra nước ngoài của các nhà bán lẻ lớn tại các quốc gia trên thế giới vẫn gia tăng nhanh chóng. Thị trường bán lẻ của mỗi quốc gia trở thành “sân chơi” chung cho các nhà bán lẻ lớn thuộc nhiều quốc gia khác nhau.

Theo dữ liệu từ Deloitte, công ty Tư vấn Dự án McMillan Doolittle, thì trong khoảng 2010 đến 2015 tăng trưởng tại thị trường nước ngoài của 4 tập đoàn bán lẻ lớn như sau: 9,8% cho Walmart, 7,7% cho Carrefour, 10,5% cho Tesco và 7,4% cho Metro. Trong khi đó, mức tăng trưởng tại thị trường nội địa của các tập đoàn này cùng thời điểm chỉ đạt: 2.7% cho Walmart, 3.2% cho Carrefour, 5.9% cho Tesco và 1.6% cho Metro. Theo một nghiên cứu khác, khả năng thâm nhập của các tập đoàn bán lẻ lớn vào thị trường các nước cũng khác nhau. Các nước có khả năng thâm nhập cao như Singapore (85%), Bồ Đào Nha (77%), Tây Ban Nha (68%), Đức (60%), Vương quốc Anh (55%), Pháp (54%), Hà lan (51%);  trong khi những thị trường có khả năng thâm nhập thấp hơn như Úc (40%), Mỹ (39%), Canada (37%) và Thụy sỹ (29%).

Theo nghiên cứu của tập đoàn Ebeltoft, nhiều nhà bán lẻ lớn đang xem xét thâm nhập ngay trong giai đoạn đầu phát triển của những thị trường mới nổi để có được cơ hội thiết lập những cửa hàng tại các địa điểm tốt trước khi các đối thủ cạnh tranh thâm nhập.

Hai là, các nhà bán lẻ có xu hướng tăng cường cạnh tranh về giá trên thị trường bán lẻ.

Toàn cầu hóa tạo nên dòng dịch chuyển các nhà máy sản xuất đến với các nước có chi phí sản xuất thấp hơn, cũng như giúp các sản phẩm xuất khẩu trở nên cạnh tranh hơn so với các thương hiệu nội địa. Cạnh tranh gắt gao khiến một khách hàng giờ có thể trở thành "Thượng đế" của nhiều công ty khác nhau, gây ra áp lực giảm giá. Theo một nghiên cứu gần đây của Google, trước khi ra quyết định mua sắm, có tới 84% người tiêu dùng sử dụng điện thoại để tìm kiếm thông tin, bao gồm cả việc so sánh giá cả, tìm kiếm khuyến mãi và tìm kiếm thông tin sản phẩm.

Đồng thời, trong cuộc cạnh tranh về giá, các nhà bán lẻ lớn đã phải nhượng bộ nhiều hơn với người tiêu dùng. Các nhà bán lẻ, một mặt, đã đẩy mạnh hoạt động chăm sóc khách hàng, mặt khác đào tạo nhân viên về nghệ thuật "mặc cả". (Mặc cả về giá giữa người mua và người bán là rất phổ biến ở loại hình bán lẻ như hàng dong, vỉa hè, chợ, búa, nhưng giờ đây đã xuất hiện ngay trong các cơ sở bán lẻ hiện đại trong các tòa cao ốc hay siêu thị).

Việc thực thi chính sách "giá trùng khớp" (matching prices) tuy không công bố một cách rầm rộ, nhưng đang trở thành cuộc đua giữa các nhà bán lẻ lớn. (Giá trùng khớp là mức giá mà nhà bán lẻ bán cho khách hàng không cao hơn mức giá trên thị trường nếu khách hàng cho thấy bằng chứng giá cả sản phẩm đang thấp hơn giá của nhà bán lẻ). Trang web thu thập thông tin, so sánh giá cả và xếp hạng giao dịch trực tuyến DealScience đã nhận thấy rằng ít nhất 20% đại gia bán lẻ thực thi chính sách "giá trùng khớp", dù nhiều nơi không thể hiện điều đó một cách rõ ràng. Trong đó, nhiều tên tuổi lớn trong ngành bán lẻ, như Best Buy, Home Depot hay Lowe, đều đang cạnh tranh gắt gao về giá bán và thậm chí cung cấp mức giá thấp hơn 10% so với đối thủ cạnh tranh.

Ba là, xu hướng cạnh tranh giữa các nhà bán lẻ trong việc gia tăng dịch vụ cung cấp cho khách hàng.

Báo cáo mới nhất 2017 của cả Kantar & AC Nielsen đều cho thấy, người mua hàng hiện nay cũng đang bị chi phối bởi những yếu tố khác hơn là giá và khuyến mãi. Đó là các dịch vụ mà nhà bán lẻ cung cấp cho người mua tại cơ sở bán lẻ như: không gian mua sắm gọn gàng, ngăn nắp, dễ tìm thấy sản phẩm họ cần, nhân viên ân cần, vui vẻ, dịch vụ bán hàng tốt, tiết kiệm thời gian. Nói cách khác, cạnh tranh giữa các nhà bán lẻ hiện nay là cuộc đua làm sao “tiện lợi” hoá được không gian mua sắm tại mỗi store. Ví dụ, qui định của một chuỗi siêu thị lớn đặt ra nếu số khách xếp hàng tính tiền nhiều hơn 5 người/hàng, trong khi vẫn còn quầy tính tiền trống thì nhân viên sẽ bị phạt nặng.

Bốn là, xu hướng cạnh tranh giữa các nhà bán lẻ bằng việc tạo ra sự khác biệt hóa của mỗi nhà bán lẻ trên thị trường.

Cùng với sự phát triển của sản xuất và nhu cầu tiêu dùng, thị trường bán lẻ cũng phát triển ngày càng đa dạng với nhiều phân khúc khác nhau. Trong đó, một nhà bán lẻ dù có qui mô lớn đến đâu cũng không đủ năng lực để tham gia mọi phân khúc của thị trường. Xuất phát từ bài toán hiệu quả kinh doanh, các doanh nghiệp bán lẻ buộc phải lựa chọn và tập trung vào những phân khúc thị trường nhất định (phân khúc theo mặt hàng tiêu dùng, theo mức thu nhập của người mua, theo không gian lãnh thổ,…). Ví dụ, trong lĩnh vực thời trang, hãng Michael Kors đưa ra sản phẩm chất lượng cao có tên tuổi nhưng với mức giá thấp hơn hẳn so với các thương hiệu cao cấp đứng đầu khác. Có một vài thương hiệu cao cấp đã nổi tiếng từ khá lâu trong khu vực đang đối diện với nguy cơ bị nhàm chán, khiến cho các khách hàng bắt đầu cảm thấy muốn đi tìm các thương hiệu có sự khác biệt.

Bên cạnh đó, nhiều nhà bán lẻ cao cấp tập trung mang tới cho khách hàng của họ nhiều trải nghiệm và tiện ích hơn, vừa mua sắm kết hợp thư giãn và gặp gỡ, tán gẫu cùng bạn bè. Hoặc các nhà bán lẻ khác lại chú trọng đến khách hàng trẻ em và xây dựng không gian kết hợp giữa bán hàng với khu vực đồ chơi, nhà sách và khu vui chơi. Hoặc, các nhà bán lẻ tiếp tục tập trung phát triển ở các vị trí trọng điểm và tập trung phát triển các cửa hàng chính trên thị trường...

Năm là, xu hướng cạnh tranh giữa các nhà bán lẻ trong việc tạo ra nhiều kênh bán lẻ trên thị trường (bán lẻ đa kênh).

Khái niệm bán lẻ đa kênh (omnichannel) xuất hiện lần đầu vào khoảng năm 2010 và đã nhanh chóng trở thành chủ đề được các chuyên gia trong ngành bán lẻ quan tâm. Theo nghĩa rộng, đây là sự hội tụ của bán lẻ trong thế giới ảo (bao gồm cả bán lẻ qua di động) và trong thế giới thực (các cửa hàng, chui ca hàng).

Ngày nay, với sự hỗ trợ của Internet, người tiêu dùng có thể tìm kiếm thông tin về sản phầm trên và tra cứu danh mục sản phẩm cần mua tại một cơ sở bán lẻ nào đó (gần nhà, gần nơi làm việc,…). Đồng thời, trong lúc trải nghiệm, xem xét sản phẩm tại cửa hàng nào đó, người tiêu dùng cũng có thể tra cứu thêm thông tin về sản phẩm, hay so sánh giá, thông qua smartphone của mình. Họ có thể đặt hàng trực tuyến, nhưng đến nhận tại cửa hàng, thay vì đợi hàng được chuyển đến. Đây là những ví dụ tiêu biểu cho thấy hành vi mua sắm của người tiêu dùng ngày nay đang xóa nhòa ranh giới giữa các kênh bán hàng. Vì vậy, các nhà bán lẻ cần thích ứng với xu hướng thay đổi hành vi của người tiêu dùng. Mặt khác, theo Wal-Mart, sau khi giới thiệu dịch vụ ‘mua online-nhận tại cửa hàng’ nhắm đến đối tượng khách hàng đa kênh đã nhận thấy những khách hàng sử dụng dịch vụ này có mức chi tiêu cao hơn 50% so với những người chỉ mua tại cửa hàng. Điều đó có nghĩa là, các “khách hàng đa kênh” đem lại nhiều lợi nhuận hơn cho những nhà bán lẻ.

Ths.Lương Thanh Hải

Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại - VIOIT

BÀI VIẾT KHÁC