6. Giải pháp cho thời gian tới
Nền kinh tế thế giới hiện nay đang vận động trong bối cảnh toàn cầu hóa bị chững lại. Cuộc chiến giành dật thị trường giữa hàng nội và hàng ngoại trở nên quyết liệt. Vòng đời sản phẩm được rút ngắn nên việc lựa chọn sản phẩm và tổ chức tốt thị trường là rất quan trọng. Nền kinh tế thế giới cũng đang vận hành theo mô hình chuỗi giá trị toàn cầu, nghĩa là mỗi một quốc gia trở thành một mắt xích trong việc chế tạo ra các bộ phận hợp thành một sản phẩm hàng hoá hoàn chỉnh để có thể tận dụng hết các thế mạnh của nhau. Như vậy nâng cao sức cạnh tranh cho các mặt hàng xuất khẩu phải được xem là vấn đề có tính thời sự đối với các doanh nghiệp.
Đến nay, Việt Nam đã tham gia đàm phán và ký kết 17 FTA, trong đó có 15 FTA đã ký kết, có hiệu lực và 02 FTA đang đàm phán (Gồm các FTA: Việt Nam - EFTA và Việt Nam - Israel). Các FTA đã đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn (200% GDP), tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp (DN) Việt Nam mở rộng tiếp cận và thiết lập quan hệ thương mại với trên 230 thị trường. Mức độ cam kết hội nhập kinh tế quốc tế đã chuyển dần từ thấp lên cao, từ hẹp sang rộng.
FTA thế hệ mới là điều kiện quan trọng để nâng tầm trình độ phát triển của nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, tạo cơ hội hợp tác về vốn, chuyển giao công nghệ và phương thức quản lý hiện đại, hiệu quả hơn cho các DN.
Sự gia tăng của các FTA thế hệ mới gắn liền với việc mở rộng chuỗi giá trị toàn cầu (GVC). Trong bối cảnh quá trình sản xuất ngày càng bị phân mảnh và các bước sản xuất được trải rộng trên các quốc gia khác nhau, phương thức thương mại truyền thống đặc trưng bởi trao đổi hàng hóa cuối cùng đang được thay thế bằng giao dịch các nhiệm vụ (trade in tasks). Điều này cho phép các nước đang phát triển thực hiện công nghiệp hóa bằng cách đảm nhận một số nhiệm vụ nhất định trong GVC thay vì tự mình phát triển toàn bộ chuỗi sản xuất. Đây là một thời cơ quan trọng để các DN định vị lại chiến lược kinh doanh cũng như xác lập hình ảnh và trách nhiệm xã hội của DN.
Nỗ lực vươn tới những chuẩn mực quốc tế về quản trị quốc gia và quản trị DN, về lao động, môi trường… sẽ tạo ra nguồn năng lượng mới cho chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam. Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19, FTA thế hệ mới sẽ giúp DN Việt Nam có cơ hội tiếp cận các chuỗi cung ứng mới thay thế cho các chuỗi cung ứng truyền thống vốn đang bị đứt đoạn hoặc đình trệ.
Điểm nghẽn hiện nay của các DN là chi phí cho nghiên cứu, triển khai (R&D) thấp do tỷ suất lợi nhuận, tích lũy quy mô còn nhỏ, trong khi đó để phát triển theo kịp xu hướng CMCN 4.0 đòi hỏi vốn lớn, lãi phải trả cho chi phí đầu tư cao, khấu hao thiết bị cũng cao. Sự thiếu hụt nguồn vốn cũng như những nút thắt của cơ chế có thể sẽ là rào cản lớn đối với các DNNN .
Kỷ nguyên số hóa bắt đầu, nhưng nhiều DN không biết bắt đầu chuyển đổi số (CĐS) từ đâu, chưa tìm được mô hình nào phù hợp với đặc thù của riêng mình và cũng chưa tìm được đối tác đồng hành. Nhiều DNNN có nguy cơ bị loại bỏ nếu không thích ứng kịp. Theo OECD khoảng cách trong CĐS sẽ làm suy giảm năng suất các DN, gia tăng khoảng cách bất bình đẳng giữa người với người, DN với DN, vùng miền với vùng miền.
Việt Nam đang đứng trước ngã rẽ: hoặc tiếp tục xuất khẩu bằng cách tập trung vào gia công, lắp ráp - giá trị gia tăng thấp; hoặc đa dạng hoá và vươn lên trong chuỗi giá trị toàn cầu để tham gia vào công đoạn đem lại giá trị gia tăng hơn. Lợi thế nhân công giá rẻ hay lợi thế tay nghề cao cũng không thể tạo đột phá trong bối cảnh cả đầu vào và đầu ra đều không có ở Việt Nam.
Đại dịch Covid -19 đã trở thành thảm họa toàn cầu, làm đảo lộn mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội con người trong những năm vừa qua. Việt Nam là một nền kinh tế hội nhập sâu rộng, đặc biệt với nhiều đối tác đầu tư, thương mại, du lịch chủ chốt (như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU, Hoa Kỳ…) hứng chịu dịch bệnh rất nặng nề, tăng trưởng giảm sâu. Có thể nói đây chính là thời điểm tư duy lại, thiết kế lại, xây dựng lại gắn với việc nhận diện xu thế; định vị thị trường, đối tác; nâng cấp quản trị (cả quản trị rủi ro);s áng tạo sản phẩm; đào tạo kỹ năng mới cho người lao động.
Cạnh tranh chiến lược và căng thẳng thương mại giữa một số nền kinh tế lớn ngày càng gia tăng, giá cả nhiều hàng hóa trên thị trường thế giới biến động mạnh... Mặc dù các thị trường xuất khẩu được mở rộng thông qua các FTAs nhưng chúng ta cũng gặp phải những khó khăn rất lớn trước sự gia tăng của chủ nghĩa bảo hộ, các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp phòng vệ thương mại của nhiều thị trường nhập khẩu lớn của Việt Nam, cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung và diễn biến kinh tế - chính trị phức tạp ở nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới tạo ra thách thức lớn cho hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Năm 2023 sẽ là một năm với nhiều khó khăn đối với cộng đồng DN trong nước. Xu hướng chống toàn cầu hóa gia tăng, cuộc “cách mạng công nghiệp lần thứ 4” đang ập tới… Những nhân tố đó có thể dẫn tới sự đảo chiều của thương mại và đầu tư quốc tế và sẽ có ảnh hưởng lớn đến các nền kinh tế mới nổi, có độ mở cao, coi xuất khẩu và đầu tư nước ngoài là những động lực tăng trưởng chính như Việt Nam.
Trong cơ cấu sản xuất công nghiệp Việt Nam hiện nay, các ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn là các ngành Chế biến thực phẩm (luôn chiếm tỷ trọng cao nhất, mặc dù đang có xu hướng giảm dần, hiện chiếm khoảng 16,1% - Giảm từ 18,3% năm 2010 xuống còn 17,0%, năm 2015), tiếp theo là ngành sản xuất điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học (chiếm khoảng 13,3%). Ngoài ra, phải kể đến các ngành như dệt may (10,0%), sản xuất kim loại và sản phẩm dệt (cùng chiếm khoảng 5,6%),…
Với ngành công nghiệp Việt Nam, các ngành CBCT có công nghệ thấp vẫn chiếm tỷ trọng khá cao, chiếm khoảng 65% tổng sản phẩm chế biến, chế tạo của cả nước (trung bình của thế giới chiếm khoảng 18%). Những ngành công nghiệp này đều đang sử dụng nhiều lao động hoặc sản xuất sản phẩm cuối cùng có giá trị gia tăng thấp. Đây đang là một thách thức và cản trở lớn đối với phát triển công nghiệp, khi nước ta cần từng bước chuyển dịch sang các ngành công nghệ cao,để đẩy nhanh tốc độ và chất lượng tăng trưởng, tiếp cận cuộc CMCN 4.0.
Dự báo CMCN 4.0 sẽ có tác động đến các nhóm ngành công nghiệp Việt Nam trên các khía cạnh sau:
- Nhóm các ngành công nghiệp có công nghệ thấp: Đây là những sản phẩm là hàng hóa tiêu dùng cuối cùng hoặc nguyên liệu đầu vào và cũng là những ngành thâm dụng lao động (như dệt may, da giày…). Các ngành này ở nước ta đang có đặc điểm là lực lượng lao động có tác động lớn hơn công nghệ và đến nay vẫn là ngành có ưu thế của nước ta (cùng một số quốc gia đang phát triển khác). Tuy nhiên, trong bối cảnh CMCN 4.0, khi lao động được dần thay thế bằng robot và các nhà máy thông minh, thì hoạt động sản xuất của một số sản phẩm có thể sẽ trở thành một trong những thách thức lớn. Trên cơ sở đó, yếu tố quan trọng trong thời gian tới của nhóm các ngành công nghiệp này ở nước ta là cần tập trung dần vào cải tiến công nghệ và sớm nâng cao chất lượng lao động.
- Nhóm các ngành công nghiệp có công nghệ trung bình: Gồm các sản phẩm công nghiệp có tính trung gian, như sản phẩm sắt thép, xi măng, cao su, bao bì, sản phẩm khoáng sản phi kim loại,... Đây là các ngành/sản phẩm mà nước ta đang phát triển dựa nhiều vào tài nguyên, tiêu tốn năng lượng. Trong khi tại các nước phát triển, việc sản xuất các sản phẩm này lại đang tập trung hướng vào cải tiến công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm. Do đó, trong bối cảnh CMCN 4.0, ngành công nghiệp Việt Nam cần nâng cao chất lượng lao động và nhanh chóng đầu tư cải tiến công nghệ để đáp ứng nhu cầu của các thị trường khác nhau trên thế giới.
- Nhóm các ngành công nghiệp công nghệ cao: Các quốc gia công nghiệp có lợi thế hơn nhiều so với các quốc gia đang phát triển, bên cạnh công nghệ, yếu tố vốn và năng lượng cũng đóng vai trò quan trọng. Do đó, dưới tác động của CMCN 4.0, công nghiệp Việt Nam cần tập trung đầu tư phát triển KHCN, đổi mới và ứng dụng công nghệ tiến tiến; lựa chọn và dịch chuyển mạnh sang một số ngành công nghiệp công nghệ cao có nhiều cơ hội; lựa chọn và tập trung xuất khẩu một số sản phẩm có giá trị gia tăng cao mà nước ta có nhiều lợi thế.
Nhìn từ góc độ tích cực với nền công nghiệp Việt Nam, thì CMCN lần thứ tư có thể mang lại một cơ hội để bứt phá trong phát triển. Tuy nhiên, để tận dụng được cơ hội này, ngành công nghiệp nước ta cần phải có những chính sách để có cách tiếp cận tốt hơn so với những gì đã làm với những cuộc cách mạng công nghiệp trước đây.
Để thực hiện thành công mục tiêu phát triển ngành công nghiệp, góp phần đưa nền kinh tế nước ta trở thành quốc gia đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thuộc nhóm trên của các nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, cần thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp như sau:
1. Hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách phát triển ngành công nghiệp
- Xây dựng, điều chỉnh, và ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật để tạo khung khổ pháp lý cho đẩy mạnh quá trình cơ cấu lại ngành công nghiệp, phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội cũng như cam kết của Việt Nam với quốc tế.
- Đẩy mạnh thực hiện Chương trình cải cách hành chính, trong hệ thống quản lý ngành công nghiệp. Tiếp tục rà soát và cắt giảm các quy trình, thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh không còn phù hợp, đang là rào cản các hoạt động đầu tư, và kinh doanh của doanh nghiệp.
- Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, và xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, của cơ quan quản lý Nhà nước ngành công nghiệp từ trung ương đến địa phương, trong công tác phục vụ doanh nghiệp và nhà đầu tư, trong đó lấy kết quả phục vụ là tiêu chí đánh giá.
- Tiếp tục xây dựng, điều chỉnh bổ sung chính sách ưu đãi đầu tư với một số ngành/sản phẩm công nghiệp ưu tiên, các dự án đầu tư phát triển vùng nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, và môi trường trong ngành công nghiệp.
- Cơ cấu lại và hoàn thiện hệ thống quản lý ngành công nghiệp, đảm bảo vận hành hiệu quả và phân cấp trách nhiệm rõ ràng; xây dựng quy chế phối hợp thống nhất giữa trung ương và địa phương, trong thực hiện các giải pháp,chính sách phát triển công nghiệp và quy trình giải quyết các thủ tục hành chính về đầu tư, sản xuất kinh doanh. Thiết lập cơ chế đối thoại giữa các cơ quản quản lý nhà nước với doanh nghiệp và nhà đầu tư, bảo đảm nhanh chóng, hiệu quả.
- Tuyên truyền và tập trung nâng cao nhận thức của lãnh đạo các ngành, các cấp và địa phương, doanh nghiệp, về cuộc CMCN lần thứ tư. Tăng cường hội nhập quốc tế và thông tin, truyền thông tạo hiểu biết và nhận thức đúng về bản chất, đặc trưng, các cơ hội và thách thức của CMCN lần thứ tư, để có cách tiếp cận, giải pháp phù hợp, hiệu quả, trong quá trình quản lý, điều hành ngành công nghiệp, và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Cải cách và hoàn thiện các thủ tục trong việc thực hiện các chương trình hỗ trợ của Nhà nước, để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp dễ dàng tham gia, và hưởng lợi từ các chính sách phát triển của Nhà nước, như: chính sách thuế, tín dụng, nguồn vốn khoa học công nghệ,…
- Nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện phương pháp và các tiêu chí để đánh giá chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp, hiệu quả hoạt động của khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp… phù hợp với khu vực và quốc tế.
2. Tạo dựng môi trường đầu tư thuận lợi và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế
- Thúc đẩy các biện pháp xây dựng lòng tin, minh bạch hóa chính sách và thực hiện nghiêm túc, nhất quán các cam kết quốc tế.
- Loại bỏ các rào cản trong sản xuất kinh doanh, trong tiếp cận các nguồn lực Nhà nước (vốn tín dụng, chính sách thuế, chính sách đất đai...).
- Thực hiện có hiệu quả chính sách kích cầu tiêu thụ các sản phẩm công nghiệp ưu tiên trong nước, để hỗ trợ phát triển phù hợp với từng giai đoạn đầu tư.
- Xây dựng chương trình/kế hoạch về hỗ trợ, chăm sóc sau đầu tư, đặc biệt là các dự án lớn có tính chất động lực thúc đẩy phát triển, nhằm đảm bảo cho tái đầu tư và mở rộng đầu tư, cũng như tạo hiệu ứng lan tỏa thông tin thu hút cho các nhà đầu tư mới.
3. Nâng cao hiệu quả sản xuất và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp ngành công nghiệp
- Xây dựng chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp khởi nghiệp, trong các ngành công nghiệp ưu tiên, ứng dụng thành quả của cuộc CMCN lần thứ tư; khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp công nghiệp đang hoạt động, đầu tư chiều sâu và mở rộng sản xuất, để nâng cao năng cạnh tranh và tạo thêm năng lực sản xuất mới, đáp ứng tăng trưởng ngành công nghiệp.
- Tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp ngoài nhà nước, tham gia vào quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực công nghiệp, thông qua việc góp vốn, mua cổ phần, phát triển liên kết sản xuất, trên cơ sở chuỗi giá trị, giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước, trong lĩnh vực công nghiệp.
- Chú trọng mở rộng liên kết, hợp tác sản xuất và cải tiến hệ thống phân phối. Xây dựng chuỗi giá trị cho một số sản phẩm công nghiệp ưu tiên, gắn với tổ chức lại ngành công nghiệp.
4.Thu hút đầu tư FDI “thế hệ mới” và hiện đại hóa hoạt động sản xuất công nghiệp theo xu hướng CMCN 4.0
Đầu tư nước ngoài trong công nghiệp CBCT là động lực dẫn dắt, nhưng doanh nghiệp công nghiệp trong nước mới là nền tảng vững chắc để giúp một quốc gia thoát bẫy thu nhập trung bình. Do vậy, thu hút FDI cần có chiến lược và có chọn lọc, tránh tiếp nhận FDI công nghệ thấp vào cạnh tranh trực tiếp với doanh nghiệp công nghiệp trong nước để tránh bẫy giá trị gia tăng thấp, hình thành và phát triển lực lượng doanh nghiệp công nghiệp trong nước vững mạnh, gắn kết chặt chẽ với khu vực FDI và dần dần gây dựng được lực lượng doanh nghiệp trong nước vững mạnh, có được doanh nghiệp trong nước quy mô lớn, có vai trò dẫn dắt và hình thành chuỗi cung ứng trong nước.
Để thu hút được đầu tư FDI giá trị cao, cần giải quyết một số thách thức và rào cản về cơ chế, chính sách trong toàn bộ chu kỳ đầu tư của doanh nghiệp và thay đổi cách tiếp cận về FDI như hiện nay. Thứ nhất, cần hướng đến các nhà đầu tư có động lực phát triển dựa vào lao động kỹ năng tay nghề cao, công nghệ sử dụng nguồn lực tiết kiệm. Thứ hai, xúc tiến đầu tư cần chủ động, có mục tiêu, để thu hút được những nhà đầu tư mà nền kinh tế mong muốn, thay vì thụ động, mở cửa thị trường chờ nhà đầu tư tới. Thứ ba, công cụ ma-két-ting đầu tư cần tiếp cận theo ngành, theo chuỗi giá trị để thu hút được nhà đầu tư dựa trên lợi thế cạnh tranh dài hạn, thay vì công cụ ma-két-ting truyền thống dựa vào ưu đãi cao để thu hút nhà đầu tư dựa trên lợi thế chi phí ngắn hạn. Thứ tư, ưu đãi cho nhà đầu tư nên dựa trên hiệu quả, giá trị gia tăng tạo ra trong nước, kết quả hoạt động sau đầu tư thay vì ưu đãi dựa trên lượng vốn đăng ký và quy mô. Theo đó cần:
- Hoàn thiện các cơ chế chính sách thu hút đầu tư nước ngoài “thế hệ mới”. Lựa chọn một số quốc gia đối tác, để hợp tác phát triển nhanh một số ngành, lĩnh vực công nghiệp ưu tiên Việt Nam có cơ hội và lợi thế, tạo sự kết nối sản xuất trong nước với mạng sản xuất và chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu.
- Sớm chuyển nhanh từ loại hình thu hút đầu tư FDI phù hợp với nhóm sản phẩm hiện có của Việt Nam sang đón đầu và xây dựng các điều kiện đầu tư có khả năng thu hút loại hình đầu tư FDI mà Việt Nam muốn hướng đến và cần có trong thời gian tới.
- Điều chỉnh chuyển đổi hoặc thay thế các tiêu chí đo lường hiệu quả thu hút đầu tư nước ngoài từ khối lượng/số lượng hiện nay sang chất lượng/giá trị để phù hợp với chiến lược thu hút nguồn vốn FDI “thế hệ mới” trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
5. Phát triển ngành công nghiệp ưu tiên và sản phẩm công nghệ mới
- Đẩy mạnh đầu tư và phát triển một số ngành/lĩnh vực công nghiệp ưu tiên, như: sản phẩm cơ khí, ô tô, linh kiện phụ tùng ô tô, sản phẩm máy nông nghiệp, thiết bị công trình, thiết bị công nghiệp, thiết bị điện, thiết bị y tế,… Tiếp tục phát triển các ngành công nghiệp mà Việt Nam đang có thế mạnh, như: chế biến thực phẩm, dệt may, da giày,…
- Xây dựng chính sách phát triển hợp lý một số ngành công nghiệp tiêu dùng sử dụng nhiều lao động, mà Việt Nam có thế mạnh và có khả năng cạnh tranh, trên cơ sở từng bước nâng cao giá trị gia tăng, tham gia vào chuỗi giá trị sản phẩm và gắn với quy trình sản xuất tự động hóa, công nghệ hiện đại và tiên tiến.
6. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và đẩy mạnh phát triển khoa học, công nghệ ngành công nghiệp
- Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, đề án, chương trình về phát triển khoa học công nghệ trong ngành công nghiệp, như: Đề án Ứng dụng khoa học và công nghệ trong quá trình tái cơ cấu ngành Công Thương, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững giai đoạn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030, các chương trình đổi mới công nghệ quốc gia, chương trình phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ cao, chương trình quốc gia nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm hàng hóa,...
- Thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ ngành công nghiệp, và nâng cao năng lực, trình độ quản lý sản xuất ngành công nghiệp, trên cơ sở thúc đẩy mạnh doanh nghiệp thực hiện các hệ thống tiêu chuẩn, quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt là về sức khỏe, môi trường, để vượt qua các rào cản kỹ thuật trong thương mại tại các thị trường xuất khẩu quan trọng.
- Tăng cường và nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý Nhà nước về pháp luật, trong công tác thực thi Luật sở hữu trí tuệ, đăng ký bảo hộ bản quyền tác giả, kiểu dáng công nghiệp, mẫu mã sản phẩm... tạo điều kiện cho doanh nghiệp yên tâm đầu tư phát triển ổn định và tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao hơn.
- Đổi mới chính sách và chương trình đào tạo, dạy nghề về công nghệ và kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế thị trường và phù hợp với hội nhập kinh tế quốc tế. Mở rộng hoạt động hợp tác và hội nhập quốc tế về dạy nghề, phát triển thị trường lao động, an sinh xã hội… nhằm thu hút nguồn lực, kinh nghiệm quốc tế trong phát triển nguồn nhân lực.
7. Phát triển dịch vụ và cơ sở hạ tầng phục vụ ngành công nghiệp
-Tập trung phát triển mạnh công tác nghiên cứu tiếp cận thị trường ở mọi cấp, mọi ngành, mọi doanh nghiệp. Tăng cường hệ thống thu thập, xử lý và cung cấp thông tin thị trường trong và ngoài nước cho các doanh nghiệp. Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc phát triển thị trường và tiêu thụ sản phẩm.
- Đổi mới và áp dụng công nghệ dịch vụ hiện đại, lấy việc phát triển các ngành, sản phẩm công nghiệp làm trung tâm để phục vụ. Hình thành và phát triển hệ thống doanh nghiệp dịch vụ,tư vấn phát triển công nghiệp.
- Tập trung thúc đẩy phát triển hạ tầng, ứng dụng và nhân lực công nghệ thông tin ngành công nghiệp. Phát triển hạ tầng kết nối số và bảo đảm an toàn, an ninh mạng, tạo điều kiện cho doanh nghiệp ngành công nghiệp và nhà đầu tư dễ dàng, bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội phát triển nội dung số.
- Rà soát, hoàn thiện quy hoạch và thực hiện tốt các chính sách để thu hút nhà đầu tư đẩy mạnh đầu tư và hoàn thiện hạ tầng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, đáp ứng nhu cầu mặt bằng và mở rộng sản xuất của doanh nghiệp, với dịch vụ đầy đủ và chi phí hợp lý.
8. Phát triển các hoạt động công nghiệp tiêu thụ ít năng lượng, khai thác hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường
- Kiểm soát chặt chẽ các dự án sản xuất công nghiệp từ giai đoạn lập dự án,thi công xây dựng và vận hành sản xuất. Khuyến khích sử dụng công nghệ thân thiện môi trường, công nghệ ít tiêu tốn năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính...
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc gia về hiệu suất sử dụng năng lượng, tài nguyên, nguyên vật liệu, về môi trường, về an toàn,… theo hướng nâng cao hơn, tiệm cận dần tới cấp độ của các nước công nghiệp phát triển nhằm tăng khả năng xuất khẩu và bảo vệ sản xuất, tiêu dùng trong nước.
- Tăng cường quản lý hoạt động của ngành công nghiệp, thông qua hệ thống tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật chất lượng, môi trường, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế; rà soát, bổ sung và hoàn thiện các chính sách về bảo vệ môi trường đối với một số ngành công nghiệp có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao.
Không thể phát triển nếu không có sự đánh đổi. Tuy nhiên, cần thống nhất được (về nguyên tắc) mức độ có thể chấp nhận để sự đánh đổi là phát triển chứ không phải là hủy hoại tài nguyên, môi trường. Chúng ta đã nhận ra không thể nào tập trung vào tài nguyên được vì tài nguyên cũng sẽ cạn kiệt cùng với tăng ô nhiễm môi trường và nếu là tăng trưởng bền vững thì không thể dựa vào tài nguyên.
Tương lai không có gì đảm bảo và chắc chắn, nhưng có điều chắc chắn là ương lai sẽ khác bây giờ. Làm thế nào để nước ta có thể cải thiện được môi trường của mình trong thế giới này? Lời khuyên đặt ra là: “Chúng ta phải từ bỏ việc cố tìm ra điều sẽ phải làm bằng cách dựa vào điều chúng ta đã làm. Ở thế kỷ 21, người chiến thắng là những ai đứng phía trước đường cong thay đổi, tạo ra thị trường mới, khai phá con đường mới, sáng tạo lại các quy tắc cạnh tranh, thách thức với hiện trạng… Đó là những người sáng tạo ra thế giới chứ không phải những người chỉ biết ứng phó với thế giới”. Đây chính là bài học kinh nghiệm của các con rồng châu Á mà Việt Nam cần phải suy ngẫm để học tập./.
Tài liệu tham khảo
Báo cáo tổng kết thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2011-2020, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030 (Tháng 2/2020).
Báo cáo Tổng kết Bộ Công Thương 2015-2021
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc (Khóa VII đến khóa XIII).
Nghị quyết của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030 (Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20 tháng 8 năm 2019).
Định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Kèm theo Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22 tháng 3 năm 2018).
Báo cáo tổng quan Việt Nam 2035, Hướng tới Thịnh vượng, Sáng tạo, Công bằng và Dân chủ (Ngân hàng Thế giới và Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2016).
Chiến lược quốc gia về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến năm 2030 (Bộ Kế hoạch và Đầu tư-Dự thảo tháng 7/2019).
Đánh giá sự sẵn sàng tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 của các doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp Việt Nam (Bộ Công Thương-UNDP năm 2019).
Đề án Chiến lược công nghiệp hóa mới đến năm 2030,tầm nhìn đến năm 2035 (Viện NCCLCSCT-2019).
Đề tài Chính sách phát triển công nghiệp quốc gia-Lý luận và thực tiễn (Ban Kinh tế Trung ương-2018).
Kế hoạch cơ cấu lại ngành công nghiệp giai đoạn 2018-2020, xét đến năm 2025 (Kèm theo Quyết định số 598/QĐ-TTg ngày 25 tháng 5 năm 2018).
Một số kinh nghiệm rút ra từ mô hình công nghiệp hóa của các nước Đông Á(Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á).
Vũ Huy Hùng
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến Thương mại - VIOIT