NGHIÊN CỨU

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Nghiên cứu

Nâng cao năng lực cạnh tranh cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam: Thực tiễn và giải pháp (Phần 2 - tiếp theo và hết)

12/10/2022
Nâng cao năng lực cạnh tranh cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam: Thực tiễn và giải pháp (Phần 1)

3. Bối cảnh và giải pháp cho thời gian tới

Thế giới đang trải qua những thay đổi to lớn. Ba xu hướng đang tác động lên nền kinh tế các nước: sự chững lại của quá trình toàn cầu hóa; bùng nổ các ứng dụng công nghệ và sự xuất hiện ngày càng nhiều các biến cố kiểu “thiên nga đen - black swan - một sự kiện vượt quá những gì thường được dự kiến về một tình huống nào đó và có những hậu quả nghiêm trọng”, gây bất ngờ và xáo trộn mọi dự tính.

Hệ thống hay trật tự kinh tế thế giới (TTKTTG) được hình thành từ năm 1944 đang có nhiều thay đổi. Đại dịch Covid-19 và cuộc chiến Nga - Ukaina nổ ra được cho là đang tạo ra nhiều yếu tố mới có thể làm thay đổi trật tự này thêm nữa. Như vậy có thể nói:

TTKTTG được thiết lập từ năm 1944 bị đe dọa tồn tại bởi nhiều yếu tố.

- Cuộc chiến Nga - Ukraina chỉ là yếu tố góp phần thúc đẩy mạnh hơn quá trình phân rã này.

- Các kênh phân rã gồm: 1/ Các chuỗi cung ứng, 2/ dòng vốn, 3/ dòng thương mại và việc làm và 4/ công nghệ.

- Nhiều khả năng sẽ có những cải cách nhằm ngăn những thách thức tương tự trong tương lai nhằm phá vỡ nó.

Thế giới vẫn là thời của chuyển đổi (giữa hiện trạng và xu thế), thời của va đập (tự do hóa và bảo hộ; đa phương hóa và đơn phương; xung đột thương mại, địa chính trị của các nước lớn...), thời của sáng tạo tài chính và lòng tham; thời của biến đổi khí hậu. Dự báo cho thấy Việt Nam chỉ có thể thu hút những chuỗi hoặc những phần không quan trọng của các chuỗi cung ứng có giá trị thấp và có thể dễ dàng thay thế. Các doanh nghiệp Việt Nam có thể thiệt hại vì các lệnh cấm vận nếu không tính toán kỹ lưỡng các quan hệ thương mại với Trung Quốc và Nga.

Nền kinh tế thương mại thế giới hiện nay đang vận động trong bối cảnh toàn cầu hóa bị chững lại. Cuộc chiến giành dật thị trường giữa hàng nội và hàng ngoại trở nên quyết liệt. Vòng đời sản phẩm được rút ngắn nên việc lựa chọn sản phẩm và tổ chức tốt thị trường là rất quan trọng. Nền kinh tế thế giới cũng đang vận hành theo mô hình chuỗi giá trị toàn cầu, nghĩa là mỗi một quốc gia trở thành một mắt xích trong việc chế tạo ra các bộ phận hợp thành một sản phẩm hàng hoá hoàn chỉnh để có thể tận dụng hết các thế mạnh của nhau. Như vậy nâng cao sức cạnh tranh cho các mặt hàng xuất khẩu phải được xem là vấn đề có tính thời sự đối với các doanh nghiệp.

Đến nay, Việt Nam đã tham gia đàm phán và ký kết 17 Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có 15 FTA đã ký kết, có hiệu lực và 02 FTA đang đàm phán (Gồm các FTA: Việt Nam - EFTA và Việt Nam - Israel). Các FTA đã đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn (200% GDP), tạo điều kiện thuận lợi cho các doah nghiệp (DN) Việt Nam mở rộng tiếp cận và thiết lập quan hệ thương mại với trên 230 thị trường. Mức độ cam kết hội nhập kinh tế quốc tế đã chuyển dần từ thấp lên cao, từ hẹp sang rộng. Nếu như với nhiều FTA trước đây, Việt Nam chỉ cam kết thực thi một số lĩnh vực, thì với các FTA thế hệ mới, đặc biệt là CPTPP và EVFTA,Việt Nam cam kết thực thi toàn bộ 21 lĩnh vực từ thuế quan, quy tắc xuất xứ, dịch vụ tài chính, đầu tư… đến mua sắm công, sở hữu trí tuệ (SHTT), lao động, môi trường, giải quyết tranh chấp… FTA thế hệ mới đặt ra những đòi hỏi cao hơn nhiều: tháo gỡ hết mọi rào cản thương mại, tự do hoá tối đa các hoạt động đầu tư, dịch vụ, yêu cầu cao về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ môi trường và cả những vấn đề nhạy cảm đối với Việt Nam như: bình đẳng không phân biệt đối xử với các loại DN trong và ngoài nước, vấn đề DN nhà nước, vấn đề quyền lập hội,vấn đề mua sắm của Chính phủ… những vấn đề mà các nước lớn đã "cài đặt" xong hoặc cơ bản xong trong các FTA đã ký, Việt Nam chỉ "tranh đấu" được thời hạn bảo lưu hợp lý.

Được xem là “những hiệp định của thế kỷ 21”, các FTA thế hệ mới hướng tới một sân chơi với các tiêu chuẩn mới cho thương mại, đầu tư, hội nhập kinh tế quốc tế. Dự báo Việt Nam sẽ được hưởng lợi lớn từ làn sóng đầu tư mới, hình thành năng lực sản xuất mới để tận dụng các cơ hội xuất khẩu và tham gia các chuỗi giá trị trong khu vực và toàn cầu do các FTA đem lại. Với các cam kết sâu và rộng hơn WTO, các hiệp định hứa hẹn sẽ giúp nền kinh tế phân bổ lại nguồn lực theo hướng hiệu quả hơn, hỗ trợ tích cực cho quá trình tái cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng. Do hướng tới môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch hóa quy trình xây dựng chính sách và khuyến khích sự tham gia của công chúng vào quá trình này sẽ thúc đẩy việc hoàn thiện thể chế kinh tế cũng như tăng cường cải cách hành chính.

Với việc thực thi các FTA thế hệ mới, chúng ta sẽ có điều kiện tăng tốc mở cửa với thế giới, tạo lập một nền kinh tế thị trường theo đúng nghĩa của nó - cơ sở để xây dựng một nền kinh tế có sức cạnh tranh. Khung khổ pháp lý của các hiệp định sẽ là khuôn mẫu cho việc vận hành các nền kinh tế trong thế kỷ XXI, với những quy phạm, quy định cao hơn, toàn diện hơn. Việt Nam sẽ được chơi trên một sân chơi đẳng cấp - sân chơi của các “đại gia”, có nhiều cơ hội để kết nối sâu hơn với kinh tế toàn cầu.

FTA thế hệ mới là điều kiện quan trọng để nâng tầm trình độ phát triển của nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, tạo cơ hội hợp tác về vốn, chuyển giao công nghệ và phương thức quản lý hiện đại, hiệu quả hơn cho các DN, giảm dần việc gia công, lắp ráp, tham gia vào các công đoạn sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn... tiền lương và thu nhập của người lao động nhờ đó sẽ được cải thiện.

Các FTA thế hệ mới thúc đẩy các DN Việt Nam phải tự nâng cấp chính mình, chấp nhận những luật chơi mới để tiến sâu hơn, vươn lên những công đoạn có giá trị cao hơn trong chuỗi cung ứng, phân phối.

Sự gia tăng của các FTA thế hệ mới gắn liền với việc mở rộng chuỗi giá trị toàn cầu (GVC). Trong bối cảnh quá trình sản xuất ngày càng bị phân mảnh và các bước sản xuất được trải rộng trên các quốc gia khác nhau, phương thức thương mại truyền thống đặc trưng bởi trao đổi hàng hóa cuối cùng đang được thay thế bằng giao dịch các nhiệm vụ (trade in tasks). Điều này cho phép các nước đang phát triển thực hiện công nghiệp hóa bằng cách đảm nhận một số nhiệm vụ nhất định trong GVC thay vì tự mình phát triển toàn bộ chuỗi sản xuất. Đây là một thời cơ quan trọng để các DN định vị lại chiến lược kinh doanh cũng như xác lập hình ảnh và trách nhiệm xã hội của DN.

Nỗ lực vươn tới những chuẩn mực quốc tế về quản trị quốc gia và quản trị DN, về lao động, môi trường… sẽ tạo ra nguồn năng lượng mới cho chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam. Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19, FTA thế hệ mới sẽ giúp DN Việt Nam có cơ hội tiếp cận các chuỗi cung ứng mới thay thế cho các chuỗi cung ứng truyền thống vốn đang bị đứt đoạn hoặc đình trệ.

Nhìn lại chặng đường đã qua, bên cạnh những kết quả đạt được, nhìn chung quá trình hội nhập kinh tế thông qua các FTA vẫn chưa thực sự “khắc họa” được những tác động tích cực, mang tính dài hạn. Khả năng thích ứng với kinh tế thị trường, khả năng chủ động khai thác cơ hội của chúng ta còn yếu. Việt Nam mới đơn thuần tận dụng được lợi ích tĩnh mang tính ngắn hạn, chưa tận dụng được các lợi ích động mang tính dài hạn, đặc biệt là việc tạo động lực cho đổi mới và sáng tạo, phát huy tối đa nội lực nhằm “bước lên” các “thang bậc” có giá trị gia tăng cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu. Lợi ích quốc gia thu được từ tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế còn chưa tương xứng với tiềm năng, vị thế địa kinh tế, chính trị của đất nước...

Tác động tổng thể đối với nền kinh tế Việt Nam nhìn chung là tích cực, song không có nghĩa đúng với mọi ngành, mọi DN. Những dự báo cho thấy: Việt Nam cũng sẽ là nước gặp khó khăn trong việc thực thi các cam kết vì là nước có nền kinh tế và hệ thống pháp luật "khập khiễng" nhất trong số các nước tham gia đàm phán, ký kết. Cơ hội tự thân nó sẽ không chuyển hóa thành lợi ích mà tùy thuộc vào nỗ lực của từng chủ thể, mỗi DN và những chính sách vĩ mô. Người nào chuẩn bị tốt hơn sẽ gặt hái được những thành quả tốt hơn.

Thực thi các cam kết, các DN sẽ phải vận động theo đúng cơ chế thị trường. Các DN phải đảm bảo quyền của người lao động không chỉ dựa trên pháp luật Việt Nam, mà còn theo tiêu chuẩn quốc tế mà hiệp định đã đưa ra. Đặc biệt là đảm bảo quyền đối thoại của người lao động. Công đoàn cấp cơ sở phải do chính người lao động bầu lên, người đứng đầu không được phép là quản lý cấp cao của DN. Người lao động phải được tham vấn các vấn đề, chính sách liên quan đến họ. Thậm chí cơ sở hạ tầng nhà vệ sinh cũng là vấn đề phải lưu tâm. Các FTA thế hệ mới cũng quy định rất rõ về quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể của người lao động và người sử dụng lao động; về việc xóa bỏ lao động cưỡng bức và lao động bắt buộc; cấm sử dụng lao động trẻ em; xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp... nếu không thực hiện tốt các cam kết này, nhất là nếu bị phát hiện ra các vấn đề về lao động trẻ em ở các khâu sản xuất, các đối tác sẽ có quyền từ chối nhập khẩu sản phẩm của Việt Nam.

Thực thi đầy đủ các cam kết về lao động, môi trường, cam kết về sở hữu trí tuệ chắc chắn chi phí sản xuất sẽ tăng, trong khi tiềm lực tài chính của DN có hạn thì việc thực hiện cam kết trong thời gian trước mắt là bất lợi cho DN. Nếu thiếu những bước đi bài bản trên cơ sở nhất quán, kiên nhẫn đầu tư, DN khó có thể đáp ứng được các tiêu chuẩn về phát triển bền vững. Ngoài ra,với các điều khoản của FTA,việc giám sát thực thi sẽ chặt chẽ hơn, chi phí tuân thủ của DN vì vậy có thể sẽ cao hơn.

Điểm “nghẽn” hiện nay của các DN là chi phí cho nghiên cứu, triển khai (R&D) thấp do tỷ suất lợi nhuận, tích lũy quy mô còn nhỏ, trong khi đó để phát triển theo kịp xu hướng CMCN 4.0 đòi hỏi vốn lớn, lãi phải trả cho chi phí đầu tư cao, khấu hao thiết bị cũng cao. Sự thiếu hụt nguồn vốn cũng như những nút thắt của cơ chế có thể sẽ là rào cản lớn đối với các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN).

Kỷ nguyên số hóa bắt đầu, nhưng nhiều DN không biết bắt đầu chuyển đổi số (CĐS) từ đâu, chưa tìm được mô hình nào phù hợp với đặc thù của riêng mình và cũng chưa tìm được đối tác đồng hành. Nhiều DNNN có nguy cơ bị loại bỏ nếu không thích ứng kịp. Theo OECD khoảng cách trong CĐS sẽ làm suy giảm năng suất các DN, gia tăng khoảng cách bất bình đẳng giữa người với người, DN với DN, vùng miền với vùng miền.

Việt Nam đang đứng trước ngã rẽ: hoặc tiếp tục xuất khẩu bằng cách tập trung vào gia công, lắp ráp - giá trị gia tăng thấp; hoặc đa dạng hoá và vươn lên trong chuỗi giá trị toàn cầu để tham gia vào công đoạn đem lại giá trị gia tăng hơn. Lợi thế nhân công giá rẻ hay lợi thế tay nghề cao cũng không thể tạo đột phá trong bối cảnh cả đầu vào và đầu ra đều không có ở Việt Nam. Các xa lộ FTA” đã được mở ra, vấn đề là chúng ta sẽ chạy trên đó bằng “phương tiện gì” và theo cách nào. Liệu các DN Việt Nam sớm có khả năng sản xuất để cung ứng hàng hóa có chất lượng cho người tiêu dùng hay không? 

Đại dịch Covid-19 đã trở thành thảm họa toàn cầu, làm đảo lộn mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội con người trong những năm vừa qua. Việt Nam là một nền kinh tế hội nhập  sâu rộng, đặc biệt với nhiều đối tác đầu tư, thương mại, du lịch chủ chốt (như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU, Hoa Kỳ…) hứng chịu dịch bệnh rất nặng nề, tăng trưởng giảm sâu. Có thể nói đây chính là thời điểm tư duy lại, thiết kế lại, xây dựng lại gắn với việc nhận diện xu thế; định vị thị trường, đối tác; xác định cách thức CĐS; nâng cấp quản trị (cả quản trị rủi ro); sáng tạo sản phẩm; đào tạo kỹ năng mới cho người lao động.

Chúng ta đang kinh doanh trong một nền thương mại toàn cầu, nơi mọi nền kinh tế, mọi doanh nghiệp đều có sự ràng buộc, liên hệ chặt chẽ với nhau. Nền sản xuất gia công như hiện nay không mang đến những cơ hội để Việt Nam gia nhập nhóm các quốc gia có mức thu nhập trung bình cao. Với cấu trúc kinh tế và thứ tự ưu tiên chính sách như hiện nay, hội nhập không kéo theo tăng trưởng thực sự cho Việt Nam nhưng lại có lợi cho khu vực FDI và các nước xuất khẩu sản phẩm làm đầu vào cho quá trình sản xuất của Việt Nam. Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam không những không tác động nhiều đến thu nhập mà còn lan tỏa mạnh đến nhập khẩu và ô nhiễm. Như vậy, nếu cấu trúc kinh tế không thực sự thay đổi thì rất có thể khi tiếp tục ký kết, thực thi các hiệp định thương mại tự do, gánh nặng”môi trường sẽ trở nên trầm trọng hơn.

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại những cơ hội to lớn cho Việt Nam trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu. Song chính trong cơ hội đó lại hàm chứa những thách thức gay gắt, trong đó điều bất cập là khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Kết quả khảo sát gần đây cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam gặp khá nhiều khó khăn trong việc đáp ứng các quy định tiêu chuẩn của các quốc gia và tổ chức quốc tế về phương pháp sản xuất, chế biến, đảm bảo các tiêu chuẩn về môi trường, yêu cầu về bao bì đóng gói, tiêu chuẩn kiểm dịch động thực vật, yêu cầu sử dụng vật tư năng lượng không gây hại môi trường….

Cạnh tranh chiến lược và căng thẳng thương mại giữa một số nền kinh tế lớn ngày càng gia tăng, giá cả nhiều hàng hóa trên thị trường thế giới biến động mạnh... Mặc dù các thị trường xuất khẩu được mở rộng thông qua các hiệp định thương mại tự do (FTAs) nhưng chúng ta cũng gặp phải những khó khăn rất lớn trước sự gia tăng của chủ nghĩa bảo hộ, các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp phòng vệ thương mại của nhiều thị trường nhập khẩu lớn của Việt Nam, cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung và diễn biến kinh tế - chính trị phức tạp ở nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới tạo ra thách thức lớn cho hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung.

Năm 2023 sẽ là một năm với nhiều khó khăn đối với cộng đồng doanh nghiệp trong nước. Xu hướng chống toàn cầu hóa gia tăng, cuộc “cách mạng công nghiệp lần thứ 4” đang ập tới… những nhân tố đó có thể dẫn tới sự đảo chiều của thương mại và đầu tư quốc tế và sẽ có ảnh hưởng lớn đến các nền kinh tế mới nổi, có độ mở cao, coi xuất khẩu và đầu tư nước ngoài là những động lực tăng trưởng chính như Việt Nam. Vì thế, trước mắt cần tập trung vào các giải pháp chủ yếu sau :

1. Tập trung triển khai đồng bộ cả 3 khâu: i) phát triển nguyên liệu tập trung theo lợi thế từng vùng miền để lựa chọn đối tượng sản xuất; ii) đi sâu hơn vào công tác chế biến; iii) mở rộng thị trường. Trong năm 2023 và những năm tiếp theo phải tiếp tục làm sâu sắc hơn, tập trung phát triển theo chuỗi giá trị, ứng dụng khoa học công nghệ và đặc biệt phải tiếp tục chú ý hai nút thắt, đó là: phát triển vùng nguyên liệu tập trung, chế biến sâu và xúc tiến, mở rộng thị trường. 

2. Trong giai đoạn trước mắt từ nay đến 2025, Việt Nam nên áp dụng “Chiến lược cạnh tranh tập trung trên nền tảng chi phí thấp” (Cost Focus). Tập trung vào một số ngành hàng xuất khẩu chủ lực, chú trọng khai thác tối đa các phân đoạn thị trường mục tiêu trên cơ sở vẫn đảm bảo việc phát triển, tìm kiếm các thị trường mới và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Theo thứ tự ưu tiên, trước hết tập trung vào những ngành có lợi thế về mặt cạnh tranh tĩnh hay những ngành có lợi thế sẵn có về tài nguyên, chi phí lao động rẻ, hàm lượng lao động cao như: nông sản, khoáng sản, dệt may, giày dép, chế biến sản phẩm gỗ, thủ công mỹ nghệ và một số ngành đang được xác định trong định hướng phát triển xuất khẩu giai đoạn đến năm 2025. Đây chính là giai đoạn tích lũy vốn để chuẩn bị cho việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng xuất khẩu trong các giai đoạn tiếp sau. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài có chọn lọc nhằm chuyển dần cơ cấu xuất khẩu từ những ngành sử dụng nhiều lao động rẻ, tài nguyên sẵn có sang những ngành công nghiệp chế biến công nghệ khá, sử dụng nhiều lao động như: chế biến nông sản, thực phẩm, chế biến thủy sản, lâm sản. Từng bước chuyển nhanh sang những ngành sử dụng lao động trình độ cao và công nghệ tiên tiến, nhằm nâng cao giá trị gia tăng cho các ngành hàng xuất khẩu như: đồ điện gia dụng, lắp ráp điện tử, công nghệ thông tin, chế tạo máy móc, cơ khí...

3. Nhà nước đảm bảo thông tin phát triển thị trường cho các DN. Tạo thuận lợi cho nhập khẩu công nghệ, nguyên liệu để phát triển sản xuất, xuất khẩu một số ngành hàng chủ lực mà Việt Nam đang có cơ hội. Xây dựng cơ chế, chính sách nhằm hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn của Việt Nam theo hướng tương thích với hệ thống tiêu chuẩn của các nước nhập khẩu. Đổi mới và nâng cao hiệu quả chính sách xúc tiến thương mại và chương trình thương hiệu quốc gia, tăng cường kết nối với các hệ thống phân phối nước ngoài. Phát huy vai trò của quản lý Nhà nước trong việc theo dõi, tổ chức thực hiện và kiểm soát, đánh giá chính sách. Tham tán thương mại cần có sự cập nhật và dự báo chính sách của nước sở tại, đặc biệt là chính sách thuế, chính sách và tiêu chuẩn về môi trường/tiêu chuẩn sản phẩm, thông tin cụ thể về chính sách tồn trữ, chiến lược phát triển ngành, chính sách bảo vệ môi trường và dự báo dòng dịch chuyển cơ sở sản xuất.

4. Tiếp tục đầu tư cho các Viện, Trung tâm nghiên cứu để có đủ năng lực nghiên cứu và chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật về giống, đặc biệt quan tâm đến việc chuyển giao các loại giống tốt, sạch bệnh đã qua khảo nghiệm vào sản xuất đại trà. Gắn kết chương trình giống quốc gia với chương trình khuyến nông để chuyển giao nhanh các tiến bộ về giống, kỹ thuật canh tác, thâm canh mới vào vùng sản xuất nguyên liệu.

5. Doanh nghiệp cần thực hiện các chương trình đào tạo mới, đào tạo lại, đổi mới chất lượng nguồn nhân lực doanh nghiệp, nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ, năng lực xử lý và tác nghiệp các tình huống kinh doanh... tăng cường đầu tư cho đào tạo, dạy nghề và đổi mới chính sách tuyển dụng, đãi ngộ.

Rào cản thương mại môi trường là vấn đề hết sức nhậy cảm, song các DN đều cho rằng mức độ thiếu thông tin là rất cao. Do vậy, các DN cần phải dành một khoản chi phí thích đáng và nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, ngoại ngữ  để dự báo và phân tích ảnh hưởng của các rào cản đối với DN ở các thị trường truyền thồng và thị trường tiềm năng. Sự phối kết hợp giữa các DN với các nhà khoa học, các viện nghiên cứu, các Hiệp hội, với đối tác ngay tại nước nhập khẩu là rất cần thiết. Vấn đề quan trọng là làm thế nào để phát huy thế mạnh của Hiệp hội xuất khẩu ngành hàng nhằm tìm kiếm và cung cấp thông tin cho các DN từ các đối tác đó hoặc phát huy tinh thần hỗ trợ của các DN lớn đối với các DN nhỏ trong ngành để cùng vượt qua các rào cản này.

Tăng cường đầu tư cho đổi mới công nghệ sản xuất, chế biến theo hướng thân thiện với môi trường,vừa đảm bảo chất lượng sản phẩm, ít tiêu hao năng lượng và giảm ô nhiễm môi trường. Đây là vấn đề quan trọng liên quan đến sự tồn tại và phát triển của các DN trong môi trường cạnh tranh quốc tế mà lợi thế của ta còn khá thấp.

Trong chiến lược kinh doanh của DN cần được thể hiện rõ kế hoạch bảo vệ môi trường, dành cho nó một vị trí quan trọng với nguồn kinh phí hợp lý. Do vậy, DN cần chủ động lập kế hoạch về các hạng mục cần đầu tư, kinh phí cần thiết, lộ trình thực hiện một cách hợp lý nhằm đưa nhiệm vụ bảo vệ môi trường trở thành hoạt động có kế hoạch, đáp ứng yêu cầu cả trước mắt và lâu dài cho hoạt động xuất khẩu.

Để đáp ứng yêu cầu của sản phẩm xuất khẩu rất cần có sự liên kết giữa các nhà chế biến và nhà nuôi trồng để đảm bảo quản lý an toàn ngay tại nơi sản xuất cho đến khâu chế biến, đóng gói và xuất khẩu.

Việt Nam đã ký các FTA với các đối tác lớn trên thế giới. Nếu được tận dụng tốt, các FTA không chỉ mở ra các cơ hội phát triển mà còn là lối rẽ để Việt Nam giảm bớt và thoát khỏi tình trạng lệ thuộc quá nhiều vào một thị trường, đảm bảo sự phát triển bền vững nền kinh tế.

Nếu chúng ta quyết tâm thay đổi thì “bức tranh” xuất khẩu sẽ có sự đột phá và khởi sắc về chất, góp phần tạo nên diện mạo mới cho kinh tế Việt Nam. Câu hỏi này nằm về phía Chính phủ, các bộ, ngành, từng địa phương và mỗi doanh nghiệp trong sự quyết tâm để tạo nên một cuộc đổi mới, phát huy những “nỗ lực” của thương mại và thị trường - bước ngoặt mà chúng ta cần tiến đến trong những năm cuối của thập kỷ này./.

Tài liệu tham khảo

1. Báo cáo Tổng kết Bộ Công Thương 2016;2017;2018;2019;2020;2021

2. Niên giám thống kê Hải quan 2016 -2021

Vũ Huy Hùng

Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến thương mại - VIOIT

BÀI VIẾT KHÁC