Xuất khẩu hàng hóa của nước ta trong những năm qua không ngừng được mở rộng về quy mô và số lượng mặt hàng, đặc biệt đã phát triển thêm một số mặt hàng và tạo vị thế cao trong xuất khẩu các mặt hàng chủ lực. Nếu như năm 2007, chỉ có 11 nhóm hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD thì đến hết năm 2018, đã có 29 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD (trong đó có 8 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD và 5 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD), trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới về nhiều hàng hóa như: hạt điều thứ 1, cà phê và giày dép thứ 2, dệt may thứ 3, thủy sản thứ 6...
Năm 2021, quy mô các mặt hàng xuất khẩu tiếp tục được mở rộng. Số mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD trở lên tiếp tục tăng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong năm 2021 có 35 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, tăng 1 mặt hàng so với năm 2020 và chiếm 93,8% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 8 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 10 tỷ USD, tăng 2 mặt hàng so với năm 2020).
Thị trường xuất khẩu gia tăng, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã vươn tới hầu hết các thị trường trên thế giới, nhiều sản phẩm đã dần có chỗ đứng vững chắc và nâng cao được khả năng cạnh tranh trên nhiều thị trường có yêu cầu cao về chất lượng như EU, Nhật Bản, Mỹ, Úc... ngoài các thị trường truyền thống còn khai thác được các thị trường mới, tiềm năng và đặc biệt tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới. Kim ngạch xuất khẩu sang các khu vực thị trường đều đạt mức tăng trưởng dương, tăng cao ở những thị trường có FTA với Việt Nam như: Trung Quốc tăng 15%, Hoa Kỳ tăng 24,2%; EU tăng 14%; ASEAN tăng 25,8%, Hàn Quốc tăng 15,8%, Ấn Độ tăng 21%, New Zealand tăng 42,5%, Ôxtrâylia tăng 3,1%.
Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục cải thiện theo chiều hướng tích cực, giảm hàm lượng xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, sản phẩm công nghiệp, tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Nhóm hàng công nghiệp chế biến tiếp tục chiếm tỷ trọng chủ yếu trong cơ cấu xuất khẩu, chiếm khoảng 86,24% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng 0,6 điểm phần trăm so với năm trước.
Đóng góp chung vào tăng trưởng xuất khẩu của cả nước là sự tăng trưởng mạnh của nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản tăng 24,4%; nhóm hàng công nghiệp chế biến tăng 20,4% so với cùng kỳ năm 2020; nhóm nông lâm sản thủy sản chỉ tăng 11,9%.
Các mặt hàng có đóng góp lớn vào mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu là điện thoại các loại và linh kiện ước đạt 57,5 tỷ USD (tăng 12,4%), máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện ước đạt 51,01 tỷ USD (tăng 14,4%); máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác ước đạt 38,34 tỷ USD (tăng 41%); gỗ và sản phẩm gỗ ước đạt 14,8 tỷ USD (tăng 19,7%); sắt thép các loại ước đạt 11,75 tỷ USD, tăng 123,4%. Đặc biệt, dệt may và da giày là 2 nhóm hàng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh Covid-19 trong năm 2020 đã có sự phục hồi, với kim ngạch ước đạt 32,74 tỷ USD và 17,61 tỷ USD, ước tăng lần lượt 9,8% và 4,9% so với cùng kỳ năm trước.
2. Năng lực cạnh tranh của các mặt hàng chủ lực
Mô hình thị phần không đổi CMS (Constant Market Share Model) lần đầu tiên được sử dụng trong phân tích mậu dịch thế giới và phân tích lợi thế cạnh tranh bởi Tyszynski (1951). Từ đó nó trở nên rất phổ biến trong những nghiên cứu về phân tích xuất khẩu và phân tích lợi thế so sánh trên thế giới. Kết quả phân tích thử nghiệm mô hình CMS ở thị trường Trung Quốc cho thấy: khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam giảm là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến giá trị xuất khẩu của hầu hết những mặt hàng nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc giảm sút. Việc giảm khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam đôi khi được bù đắp bằng sự tăng cầu của thị trường. Nói cách khác, tăng nhập khẩu của thị trường Trung Quốc đã trở thành động lực thúc đẩy làm cho kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam tăng lên chứ không phải do khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam được cải thiện.
Với những lợi thế sẵn có và hội tụ các điều kiện thuận lợi khác trong chuỗi cung ứng, hàng dệt may,Việt Nam có thể mở rộng khả năng thâm nhập thị trường thế giới về mặt hàng này, trước hết là thị trường Hoa Kỳ, sau đó là các thị trường khó tính khác như EU, Nhật Bản. Tuy nhiên sẽ phải cạnh tranh mạnh với các sản phẩm sản xuất của Trung Quốc, cũng như các sản phẩm của một số nước ASEAN như Philippin ngay trên thị trường nội địa và thị trường nước ngoài.
Các mặt hàng điện gia dụng, điện tử, công nghệ thông tin, máy móc và cơ khí, Việt Nam kém cạnh tranh hơn so với hàng xuất khẩu của Trung Quốc và các nước ASEAN, đặc biệt là Malaysia, Thái Lan về những mặt hàng này, vì đây là các mặt hàng Trung Quốc và ASEAN-4 có lợi thế xuất khẩu và cũng là những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của họ. Cả Trung Quốc và ASEAN-4 đang tiến lên khá cao ở thượng nguồn của chuỗi giá trị trong các ngành thuộc nhóm này. Việt Nam sẽ là nước có triển vọng cạnh tranh được trong lĩnh vực này và có khả năng tạo ra sự tăng trưởng xuất khẩu đột biến trong những năm tới. Tuy chưa có lợi thế so sánh trong lĩnh vực này nhưng vẫn có thể có lợi thế so sánh động nếu có môi trường đầu tư thuận lợi và có định hướng chính sách hợp lý, đưa ra được chính sách, chiến lược cụ thể để đón đầu dòng thác công nghiệp ở Đông Á, tạo ra một sự chuyển dịch mạnh mẽ cho cơ cấu công nghiệp Việt Nam, phát huy tiềm năng để hội nhập có hiệu quả vào trào lưu tự do hoá thương mại ở khu vực này.
Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam đang có xu hướng dịch chuyển từ các ngành hàng với lợi thế cạnh tranh truyền thống sang các ngành xuất khẩu mới, ngay cả khi các mặt hàng xuất khẩu mới này vẫn chưa thể hiện được lợi thế so sánh. Như vậy, hoạt động xuất khẩu không chỉ hướng vào tận dụng lợi thế cạnh tranh tĩnh, mà còn tạo cơ hội để tạo dựng lợi thế cạnh tranh ở một số mặt hàng chế biến.
Học giả Balassa (1965) đã đưa ra công thức xác định lợi thế so sánh hiệu hữu (Revealed Comparative Advantage -RCA). Chỉ số RCA được sử dụng khá phổ biến trong việc xác định lợi thế so sánh của các quốc gia đối với từng mặt hàng cụ thể trong một thời kỳ nhất định.
Các nhóm mặt hàng: Giày, dép, dệt và các sản phẩm tương tự (HS64); các sản phẩm làm từ rơm, cỏ hoặc từ các loại vật liệu tết bện khác (HS46); cà phê, chè, các loại gia vị (HS09); quần áo và hàng may mặc phụ trợ, không dệt kim hoặc móc (HS62); quần áo và hàng may mặc phụ trợ, dệt kim móc (HS61); cá, động vật giáp xác, động vật thân mền (HS03)… là những nhóm hàng mà Việt Nam có lợi thế so sánh cao .
Nhóm mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế so sánh cao nhất theo chỉ số lợi thế so sánh hiệu hữu
Mã HS
|
Việt Nam
|
2001
|
2005
|
2010
|
2012
|
2015
|
64
|
14,0
|
14,8
|
11,3
|
10,4
|
10,4
|
46
|
27,5
|
25,2
|
14,3
|
10,4
|
8,1
|
09
|
19,5
|
16,9
|
14,3
|
15,4
|
7,1
|
62
|
6,0
|
6,2
|
6,5
|
6,2
|
4,9
|
61
|
1,5
|
4,4
|
5,7
|
5,0
|
4,3
|
42
|
3,3
|
3,3
|
3,5
|
3,2
|
3,9
|
03
|
16,8
|
13,5
|
10,5
|
8,2
|
3,7
|
65
|
3,7
|
7,1
|
5,2
|
4,2
|
3,5
|
16
|
1,8
|
3,9
|
5,1
|
4,2
|
3,1
|
52
|
0,4
|
0,3
|
2,4
|
2,0
|
2,8
|
Nguồn: Tính toán theo số liệu của TRADE MAP
Bảng sau thể hiện tỷ trọng trong xuất khẩu của các nhóm hàng theo chỉ số RCA. Cụ thể, các nhóm hàng này bao gồm: (i) nhóm hàng có lợi thế so sánh cạnh tranh tại thời điểm năm 2017 (RCA 2017>1); (ii) Nhóm hàng có lợi thế so sánh cạnh tranh tại thời điểm năm 2017 nhưng lợi thế cạnh tranh giảm so với năm 2013 (RCA 2017>1 và RCA 2017 < RCA 2013); (iii) nhóm hàng không có lợi thế so sánh cạnh tranh tại thời điểm năm 2017, nhưng lợi thế cạnh tranh đã được cải thiện so với các năm trước (RCA 2017<1 và RCA 2017 > RCA 2013); và (iv) nhóm hàng không có lợi thế so sánh cạnh tranh tại thời điểm năm 2017 và lợi thế cạnh tranh cũng không được cải thiện so với các năm trước (RCA 2017 <1 và RCA 2017 < RCA 2013).
Tỷ trọng xuất khẩu của các nhóm hàng hóa phân theo RCA
Nhóm hàng
|
%
|
Nhóm hàng có lợi thế so sánh cạnh tranh tại thời điểm năm 2017 (RCA 2017>1) và lợi thế cạnh tranh không giảm so với năm 2013
|
19,58
|
Nhóm hàng có lợi thế so sánh cạnh tranh tại thời điểm năm 2017 nhưng lợi thế cạnh tranh giảm so với năm 2013 (RCA 2017>1 và RCA 2017 < RCA 2013)
|
7,20
|
Nhóm hàng không có lợi thế so sánh cạnh tranh tại thời điểm năm 2017, nhưng lợi thế cạnh tranh đã được cải thiện so với các năm trước (RCA 2017<1 và RCA 2017 > RCA 2013)
|
6,18
|
Nhóm hàng không có lợi thế so sánh cạnh tranh tại thời điểm năm 2017 và lợi thế cạnh tranh cũng không được cải thiện so với các năm trước (RCA 2017 <1 và RCA 2017 < RCA 2013)
|
67,04
|
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Trademap, ITC 2018
Theo phương pháp Lợi thế so sánh hiện hữu (RCA), dựa trên thị phần, giá trị xuất khẩu, nhóm nghiên cứu của Trường đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội cho thấy, giai đoạn 2010 - 2019,Việt Nam có lợi thế so sánh trong 9 nhóm hàng. Đó là da giày, mũ và các sản phẩm đội đầu, nguyên liệu dệt may, hàng dệt may, thiết bị điện tử, gỗ và sản phẩm gỗ, sản phẩm thực vật, động vật sống và sản phẩm từ động vật. Nhưng đến năm 2020, chỉ còn 6 nhóm hàng được liệt kê trong danh sách này gồm hàng dệt may, da giày, điện tử, gỗ, da và nguyên liệu dệt may. Ngược lại, các nhóm ngành giấy, bột giấy, khoáng sản, dầu mỏ, nhựa, kim loại cơ bản, thiết bị cơ khí, hóa chất... có tên trong các nhóm ngành không có lợi thế so sánh của Việt Nam.
Năm 2020, Việt Nam mất lợi thế so sánh ở nhóm hàng nông nghiệp, gồm cả sản phẩm động vật và thực vật. Trong 6 nhóm ngành trên, chỉ có một ngành có tốc độ RCA tăng nhanh là điện tử. Ngay trong khu vực ASEAN, RCA của Việt Nam năm 2020 vẫn khá cao, không thay đổi nhiều so với năm trước, nhưng xét về giá trị, thì khoảng cách vẫn rất lớn, trừ nhóm ngành điện tử”.

Đồ họa: Đan Nguyễn
Sự nổi trội trong RCA của nhóm ngành điện tử không đáng ngạc nhiên khi nhìn vào tốc độ gia tăng cả về sản lượng và giá trị xuất nhập khẩu của nhóm này. Đây cũng là ngành tạo ra số lao động lớn thứ ba cho Việt Nam (sau dệt may, da giày) và thu hút lớn nguồn vốn FDI.
Trong giai đoạn 2010 - 2020, Việt Nam nằm trong Top 10 thế giới về RCA trong ngành điện tử và năm 2020 vươn lên Top 5. So sánh 10 mặt hàng điện tử có giá trị RCA trung bình lớn nhất của Việt Nam với các quốc gia khác giai đoạn 2010-2020, thì các mặt hàng có lợi thế so sánh vượt trội của Việt Nam là điện thoại, micro và loa. Theo nhóm nghiên cứu, đây là nhóm ngành Việt Nam có dư địa đẩy mạnh lợi thế so sánh trong tương lai.
Nhưng khi xem xét mức độ chuyên môn hóa trong các sản phẩm, thì những mặt hàng Việt Nam có lợi thế so sánh cao lại có chỉ số phức tạp thấp. Những sản phẩm xuất khẩu lớn cũng là sản phẩm có chỉ số phức tạp thấp, có hàm lượng khoa học công nghệ thấp. Nếu có sự thay đổi chuỗi sản xuất, chúng ta dễ bị thay thế. Đặc biệt, trong chuỗi giá trị ngành hàng điện tử của Việt Nam khi tham gia toàn cầu, thấy rõ sự “lấn át” của doanh nghiệp FDI khi chiếm 95% tổng kim ngạch xuất khẩu trong năm 2020. Tỷ lệ nội địa hóa ngành công nghiệp điện tử hiện nay rất thấp, chỉ 5-10%. Do doanh nghiệp Việt chưa đáp ứng yêu cầu rất cao về tiêu chuẩn của chuỗi sản xuất toàn cầu và doanh nghiệp toàn cầu thường có tập quán kinh doanh lựa chọn doanh nghiệp cung ứng quen thuộc hoặc cùng quốc tịch với họ... nhưng cũng nhờ vậy, Việt Nam đang thâm nhập rất sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu của ngành điện tử, đang là đầu mối lớn trong ngành này.
Chế biến thực phẩm đang nổi lên là nhóm ngành có lợi nhuận trước thuế cao, đứng thứ hai trong nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, là ngành chuyển từ nhập khẩu ròng sang xuất khẩu ròng. Tuy nhiên lợi thế so sánh của ngành này đang có xu thế giảm. Năm 2020, RCA của ngành thực phẩm Việt Nam giảm 1% so với năm 2019. Song lại có những mặt hàng trong nhóm ngành đang ở nhóm đầu thế giới về RCA, đó là thục phẩm giáp xác và chế biến.
Trong bức tranh của chuỗi giá trị toàn cầu ngành thực phẩm, sự tham gia của Việt Nam đang giảm đi, nhưng vị thế lại tăng lên. Hơn thế, trong chuỗi giá trị này, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam đang ở thế dẫn dắt sự tham gia. Tuy nhiên, khi vẽ nên chuỗi giá trị toàn cầu của ngành thực phẩm, tọa độ của Việt Nam rất xa, thậm chí khá tách biệt so với nước khác trên thế giới (sự tham gia của Việt Nam trong chuỗi này khá nông). Vị thế trong chuỗi giá trị của Việt Nam sẽ được cải thiện khi năng lực của khu vực sản xuất trong nước được cải thiện. Điều đó cũng có nghĩa là, lợi thế so sánh của Việt Nam trong ngành này sẽ giảm nếu không có các chính sách phù hợp trước bối cảnh cạnh tranh quốc tế vô cùng khắc nghiệt.
Covid-19 đang kích thích mọi thứ thay đổi nhanh, nhưng cũng có thể là lực cản nếu tư duy không thay đổi. Sau Covid-19, sau những nỗ lực thực hiện cam kết với các FTA thế hệ mới, cần phải hoạch định Việt Nam sẽ đi đến đâu trong chuỗi giá trị và chuẩn bị gì để thực hiện được điều đó, ở cả góc độ nền kinh tế, ngành và cả người lao động. Muốn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, nguyên tắc là nền kinh tế Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam phải cải thiện được năng suất nhân tố tổng hợp (TFP), nâng cao năng lực cạnh tranh. (Còn tiếp)
Vũ Huy Hùng
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến thương mại - VIOIT