Phát triển nguồn nhân lực luôn giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, xã hội nói chung và sự phát triển trong ngành Công Thương nói riêng. Nguồn nhân lực cần phát triển theo cả chiều rộng và chiều sâu bao gồm sự phát triển về số lượng, cơ cấu, trình độ nhằm phát huy tối đa khả năng lao động phục vụ cho ngành Công Thương.
Nguồn nhân lực là nguồn lực mang tính quyết định trong sự phát triển của ngành Công Thương và của đất nước. Nguồn nhân lực cần phải đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ, kỹ năng, từ đó lợi ích do nguồn nhân lực tạo ra có thể đạt được những giá trị rất lớn. Cần đánh giá nhu cầu về số lượng, cơ cấu, trình độ nguồn nhân lực để có giải pháp nhằm đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ cho ngành. Trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại những năm qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm phát triển nguồn nhân lực đóng góp ngày càng hiệu quả phát triển kinh tế đất nước và quá trình hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ.
Lĩnh vực công nghiệp và thương mại là hai lĩnh vực yêu cầu một số lượng lớn nguồn nhân lực làm việc trong ngành và với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nguồn nhân lực cần phải đáp ứng về chất lượng cao cho ngành Công Thương. Những năm vừa qua, lĩnh vực công nghiệp tiếp tục có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, cả lĩnh vực công nghiệp và thương mại duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao. Các chỉ tiêu như kim ngạch xuất nhập khẩu, giá trị sản xuất tăng lên nhanh qua các năm góp phần mở rộng thị trường, thu hút đầu tư, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bộ Công Thương đã thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực và đạt được một số kết quả đáng kể. Tuy nhiên, cần xác định rõ nhu cầu về số lượng, cơ cấu, trình độ nguồn nhân lực với đặc thù của ngành Công Thương và nghiên cứu các yếu tố tác động đến phát triển nguồn nhân lực để các cơ quan quản lý nhà nước có thể đưa ra những chính sách và giải pháp đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực hiệu quả phục vụ cho ngành Công Thương trong thời gian tới.
Yếu tố quốc tế và trong nước tác động đến phát triển nguồn nhân lực trong ngành Công Thương
1. Yếu tố quốc tế
1.1. Quá trình hội nhập và toàn cầu hoá
Hội nhập và toàn cầu hoá đang diễn ra trên thế giới, tác động tới từng khu vực, quốc gia, từng lĩnh vực và ngành nghề trong một quốc gia. Có thể nói hội nhập và toàn cầu hóa đang tạo ra yêu cầu, động lực và điều kiện để phát triển nguồn nhân lực, đào tạo và nâng cao tay nghề chuyên môn kỹ thuật. Về mặt thuận lợi, toàn cầu hoá đã có một số tác động tích cực đối việc nâng cao số lượng, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam. Hội nhập và toàn cầu hoá kích thích sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ đòi hỏi sự gia tăng trong lực lượng lao động về cả số lượng và chất lượng. Nâng cao trình độ cho theo kịp sự phát triển của khoa học, công nghệ và yêu cầu của công việc, của cuộc sống là điều kiện và động lực quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đối với lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp có phương pháp quản lý tiên tiến, sử dụng công nghệ hiện đại ở trong và ngoài nước, trong quá trình làm việc, người lao động đã học tập, tiếp thu thêm về tay nghề, năng lực quản lý. Thực tế hiện nay cho thấy, trong quá trình hội nhập, nguồn nhân lực trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại chưa thực sự đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng thể hiện qua cơ cấu, trình độ của người lao động. Như vậy cần phải nâng cao về số lượng và thay đổi cơ cấu theo hướng tích cực, nâng cao trình độ nguồn nhân lực trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại đáp ứng với sự thay đổi trong phát triển kinh tế, phát triển khoa học công nghệ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2. Chuyển dịch lao động trên quy mô toàn cầu
Xu hướng dịch chuyển nhân lực trên phạm vi toàn cầu ngày càng mạnh mẽ. Quyền tự do đi lại với các chính sách mở cửa, dịch chuyển lao động giữa các quốc gia khiến nguồn nhân lực được làm việc một cách linh hoạt, hiệu quả phụ thuộc vào nhu cầu việc làm trong nước và của các nước khác trên thế giới. Tạo ra cơ hội công bằng cho tất cả mọi người nếu môi trường làm việc phù hợp với trình độ, năng lực và mong muốn của người lao động. Từ đó dẫn đến sự cạnh tranh lớn trong thị trường lao động toàn cầu. Lao động được tự do dịch chuyển lại trở thành thách thức cho những nước đang phát triển như Việt Nam với nguy cơ nguồn lao động được đào tạo, có chất lượng cao sẽ sang làm việc tại các nước khác do môi trường làm việc tốt hơn, với mức lương, chế độ đãi ngộ cao. Thông thường, nguồn nhân lực sẽ chuyển dịch đến những nơi mà nhu cầu của họ được đáp ứng tốt nhất.
1.3. Chuyển dịch nguồn nhân lực có chất lượng giữa các nước
Việt Nam cũng như các nước thường đưa ra các chính sách thu hút nguồn nhân lực từ nước ngoài trong các lĩnh vực công nghiệp và thương mại. Trong điều kiện hội nhập hiện nay, nguồn nhân lực có chất lượng là yếu tố then chốt quyết định khả năng cạnh tranh và phát triển của nền kinh tế quốc gia nói chung và trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại nói riêng. Nhiều quốc gia đã hoạch định chính sách tuyển dụng nhân lực có chất lượng từ nước ngoài nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đáp ứng cho phát triển ngành công nghiệp và thương mại của quốc gia đó. Chính sách thu hút nguồn nhân lực từ nước ngoài của các nước phát triển đều đặt ra mục tiêu thu hút nguồn nhân lực có chất lượng bao gồm trình độ, năng lực, phẩm chất tốt để đáp ứng được các công việc cụ thể trong từng lĩnh vực, ngành nghề. Nhiều quốc gia còn cho phép lao động nước ngoài có kĩ năng, tay nghề, ngoài việc được hưởng lương đãi ngộ phù hợp, còn được cấp giấy phép định cư tại các nước họ làm việc. Việc tuyển chọn lao động dựa trên năng lực, khả năng đóng góp vào sự phát triển của đất nước, của từng ngành nghề cụ thể.
1.4. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thu hút từ nước ngoài
Các quốc gia đầu tư rất lớn cho phát triển nguồn nhân lực thông qua đào tạo và bỗi dưỡng nguồn nhân lực. Chính vì vậy, ngoài cải tiến hệ thống giáo dục, các nước cũng có chế độ đầu tư, hỗ trợ thỏa đáng để học sinh, sinh viên nước ngoài học tập tại quốc gia đó có kết quả học tập xuất sắc sẽ được nhận học bổng, hỗ trợ chi trả cho những chi phí cần thiết về sinh hoạt và học tập. Sau khi tốt nghiệp với kết quả học tập cao, những sinh viên này được ở lại làm việc và trở thành nguồn nhân lực chất lượng tại các nước sở tại.
2. Các yếu tố trong nước
2.1. Yếu tố về kinh tế, chính trị, pháp luật và xã hội
Môi trường kinh tế, chính trị, pháp luật và xã hội là yếu tố tác động trực tiếp đến nguồn nhân lực. Hệ thống các chính sách kinh tế, xã hội, các thể chế, hệ thống pháp luật luôn hướng đến mục tiêu vì con người, phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội, với phương hướng phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, giải quyết tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với việc chăm lo lợi ích lâu dài, giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội. Hệ thống pháp luật của nhà nước tác động đến nguồn nhân lực như Luật Lao động, Luật giáo dục… ,các chính sách phát triển kinh tế, xã hội.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế và yêu cầu ngày càng cao trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại, mặc dù người lao động có nhiều cơ hội lựa chọn việc làm theo khả năng của mình, song họ cũng phải đối mặt với nhiều thách thức, thậm chí là thất nghiệp, do vậy người lao động luôn cần phải được đào tạo, bồi dưỡng về trình độ chuyên môn, kỹ năng tay nghề cao hơn nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về chất lượng lao động trong ngành công nghiệp, thương mại. Ngoài ra, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực còn tạo động lực cho sự phát triển trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại của một quốc gia. Yếu tố cạnh tranh có vai trò to lớn, thúc đẩy người lao động phải thường xuyên trao dồi kiến thức để thích ứng với công nghệ mới, phương thức quản lý mới. Phát triển nguồn nhân lực dựa trên tính cân bằng giữa cung và cầu lao động, bởi đây là nhân tố rất quan trọng giúp cho việc hoạch định các chính sách trở nên thiết thực và có hiệu quả hơn.
Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực và phát triển kinh tế, chính trị, pháp luật, xã hội luôn có tác động hai chiều. Kinh tế, xã hội và hệ thống chính trị, pháp luật càng phát triển thì khả năng đầu tư của nhà nước và xã hội cho phát triển nguồn nhân lực ngày càng tăng, tạo mọi cơ hội và môi trường thuận lợi cho phát triển nguồn nhân lực. Ngược lại, nguồn nhân lực của quốc gia, địa phương được phát triển tốt sẽ góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế, chính trị, pháp luật và xã hội, những nhân tố kích thích lẫn nhau để cùng phát triển.
2.2. Giáo dục và đào tạo
Giáo dục và đào tạo là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển nguồn nhân lực, quyết định sự tăng trưởng và phát triển trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại. Trình độ, kỹ năng của người lao động nâng cao thông qua quá trình đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực. Quy mô đào tạo, bồi dưỡng sẽ quyết định tri thức, có kỹ năng nghề nghiệp, năng động và sáng tạo của người lao động. Quá trình đào tạo là quá trình tích tụ nguồn vốn con người để chuẩn bị, cung cấp nguồn nhân lực cho từng lĩnh vực trong nền kinh tế. Đào tạo, bồi dưỡng về trình độ, kỹ năng cho nguồn nhân lực thông qua giáo dục từ dạy nghề, cao đẳng, đại học, sau đại học và đào tạo kỹ năng trong quá trình làm việc sẽ nâng cao chất lượng của nguồn lao động phục vụ trong ngành Công thương.
2.3. Khoa học và công nghệ
Sự tiến bộ của khoa học và công nghệ tác động lớn đến nguồn nhân lực. Sự phát triển khoa học và công nghệ sẽ giúp nâng cao chất lượng và hiệu quả lao động trên cơ sở hiện đại hóa nguồn nhân lực. Những tiến bộ khoa học và công nghệ làm thay đổi cơ cấu lao động trong ngành Công thương, làm thay đổi tính chất, nội dung lao động nghề nghiệp của người lao động, giảm số lượng lao động nhưng lại nâng cao chất lượng lao động thông qua việc sử dụng máy móc, thiết bị công nghệ tiên tiến, hiện đại. Tiến bộ khoa học và công nghệ từng bước được quốc tế hóa tác động trực tiếp tới nguồn nhân lực, nhiều ngành nghề mới xuất hiện thay thế những ngành nghề mới, kỹ năng nghề nghiệp của người lao động yêu cầu cao hơn cùng với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ. Sự phát triển của công nghệ số, kỹ thuật số hiện nay cũng đã làm thay đổi nội dung, phương pháp dạy học từ giáo dục phổ thông đến đại học. Do vậy, cần phải nghiên cứu cải tiến, bổ sung các chương trình, phương thức đào tạo, bồi dưỡng cho người lao động nhằm nâng cao trình độ trước những thay đổi nhanh chóng của khoa học và công nghệ trong thời đại mới và phục vụ kịp thời cho quá trình phát triển trong ngành Công thương.
2.4. Phong tục, tập quán, nền văn hóa
Phong tục, tập quán và nền văn hóa sẽ ảnh hưởng lớn đến người lao động, người lao động sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp từ phong tục, tập quán và văn hóa, nơi mà họ làm việc và sinh sống. Những giá trị truyền thống như: tôn sư trọng đạo, ý thức cộng đồng, lòng yêu nước, thương người, tinh thần dũng cảm, bất khuất, tinh thần hiếu học, trọng học, chữ hiếu, lối sống, lòng nhân ái, nhân đạo là những giá trị truyền thống chi phối cuộc sống của mỗi chúng ta, là những nhân tố có ý nghĩa nhất định tác động đến tinh thần, phẩm chất của người lao động. Phát triển nguồn nhân lực cần có những phương pháp tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực, đặt phát triển nguồn nhân lực trong mối quan hệ chặt chẽ với các nhân tố tác động đến nó nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực, tìm ra những giải pháp hữu hiệu để phát triển nguồn nhân lực của ngành Công thương trong bối cảnh hiện nay.
TS. Trần Thị Thu Hiền
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT