Quan hệ thương mại và môi trường là vấn đề không mới,đã, đang và sẽ có tác động không nhỏ tới hoạt động thương mại. Vì vậy, việc EU ban hành đạo luật mới về thuế carbon nói riêng và chống biến đổi khí hậu nói chung (CBAM) hay Thỏa thuận Xanh châu Âu sẽ ảnh hưởng lớn đến các quốc gia có nền kinh tế dựa vào xuất khẩu như Việt Nam.
Đạo luật mới của EU - Cơ chế Điều chỉnh carbon Biên giới (Carbon Border Adjustment Mechanism - CBAM) - quy định trực tiếp về thuế carbon sẽ được áp dụng với nhóm mặt hàng có hàm lượng phát thải cao. Quy định mới của EU về chống mất rừng và suy thoái rừng (EU Deforestation-free Regulation - EUDR) áp dụng với một số nhóm mặt hàng nông - lâm nghiệp. Thuế carbon cùng các quy định mới về chống mất rừng và suy thoái rừng mà EU sẽ áp dụng với các sản phẩm nhập khẩu vào thị trường này trong thời gian tới.
Thực tế cho thấy, khi EU đánh thuế các sản phẩm có hàm lượng phát thải cao được sản xuất từ châu lục này thì có thể dẫn đến các doanh nghiệp EU dịch chuyển hoạt động sản xuất ra nước ngoài, thường là những nước có chính sách, tiêu chuẩn về môi trường dễ dàng hơn, nhằm giảm chi phí, sau đó lại xuất khẩu sản phẩm vào EU. Điều này sẽ tạo nên sự cạnh tranh không công bằng với sản phẩm cùng loại sản xuất ở EU. Vì thế, việc ban hành CBAM sẽ tránh được tình trạng "rò rỉ" carbon, lập lại công bằng giữa sản phẩm nhập khẩu với sản phẩm nội địa, khuyến khích các nước xuất khẩu sang EU quan tâm hơn đến vấn đề môi trường, biến đổi khí hậu.
Tại Việt Nam, trước khi Thủ tướng Phạm Minh Chính đưa ra cam kết tại Hội nghị COP26 về trung hòa phát thải (net zero) vào năm 2050, có lẽ cũng chưa nhiều người để tâm đến câu chuyện này. Vấn đề ở đây là giảm phát thải nhằm tránh đầu độc khí quyển, phát thải một cách có trách nhiệm là phải có những hành động bù đắp để hấp thụ bớt lượng khí nhà kính đưa ra môi trường. Như vậy, trong nhiều yếu tố đem lại lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp thì giảm phát thải là một yếu tố mới. Doanh nghiệp nào nhận thức nhanh nhạy và có biện pháp chuyển đổi, thích ứng với vấn đề này sẽ có lợi thế hơn.
Chính sách của EU sẽ ngăn chặn, giảm bớt việc nhập khẩu các sản phẩm có lượng phát thải carbon cao, buộc các quốc gia và doanh nghiệp phải “tái cấu trúc” để thích ứng với thời cuộc, qua đó làm thay đổi lựa chọn của các quốc gia đối với các nhà xuất khẩu hàng hóa. Bản chất CBAM không phải là thuế, nhưng tạo ra thêm chi phí để khuyến khích hay buộc doanh nghiệp phải thay đổi công nghệ sản xuất, giảm phát thải. Khi đơn hàng giảm đi, khách hàng sẽ lựa chọn những doanh nghiệp đáp ứng được cao nhất yêu cầu của họ, trong đó có yêu cầu về giảm phát thải.
CBAM áp dụng từ 1/10/2023 (tức chỉ còn hơn 4 tháng nữa). Đây là thời điểm bắt đầu giai đoạn quá độ, các doanh nghiệp nhập khẩu phải thực hiện khai báo mức độ phát thải với 6 nhóm sản phẩm, bao gồm nhôm, sắt thép, phân bón, xi măng, điện và hydrogen; tuy nhiên chưa phải trả thêm chi phí.
Từ 1/1/2026, CBAM chính thức có hiệu lực. Doanh nghiệp nhập khẩu vào EU sẽ phải khai báo số lượng hàng hóa nhập khẩu và lượng phát thải trong các hàng hóa đó; đồng thời phải xuất trình giấy chứng nhận CBAM tương ứng với lượng phát thải, và doanh nghiệp sẽ phải bỏ tiền để mua giấy chứng nhận CBAM này.
Một trong những ngành của Việt Nam có thể bị ảnh hưởng bởi Thỏa thuận Xanh châu Âu là dệt may và giày dép. Cụ thể, EU sẽ yêu cầu các sản phẩm dệt may phải được sản xuất bằng vật liệu và quy trình thân thiện với môi trường, đồng thời phải được dán nhãn sinh thái nghiêm ngặt. Không chỉ vậy, tất cả các ngành hàng cũng sẽ chịu ảnh hưởng lớn bởi EU yêu cầu bao bì phải được làm bằng vật liệu thân thiện với môi trường và có thể tái chế hoàn toàn. Quy định này sẽ tác động đến các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực sản xuất bao bì, cũng như doanh nghiệp sử dụng bao bì cho các sản phẩm xuất khẩu. Tương tự, ngành nông thủy sản cũng sẽ đối mặt với những khó khăn khi Thỏa thuận Xanh đưa ra quy định yêu cầu doanh nghiệp nông nghiệp phải thay đổi quy trình sản xuất theo hướng giảm thiểu chất thải, giảm sử dụng hóa chất độc hại.
Theo ông Patrick Haverman, Phó Trưởng Đại diện Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam, việc phá rừng và suy thoái rừng đang là những nguyên nhân quan trọng gây ra biến đổi khí hậu và mất mát đa dạng sinh học trên toàn cầu. Vì thế, bên cạnh CBAM, nhằm giảm thiểu rủi ro các sản phẩm trong chuỗi cung ứng liên quan đến phá/suy thoái rừng được nhập khẩu vào, hoặc xuất khẩu từ EU, đồng thời, giảm thiểu rủi ro các sản phẩm trong chuỗi cung ứng liên quan đến phá/suy thoái rừng được nhập khẩu vào, hoặc xuất khẩu từ EU. Tháng 11/2022, Ủy ban châu Âu (EC) đã đề xuất xây dựng Quy định về chuỗi cung ứng không gây phá rừng và suy thoái rừng. Đến tháng 12/2022, thỏa thuận chính trị sơ bộ giữa Nghị viện và Hội đồng châu Âu đã được thông qua.
Quy định về chuỗi cung ứng không gây phá rừng và suy thoái rừng dự kiến tháng 6/2023 sẽ có hiệu lực và tháng 12/2024 bắt đầu áp dụng các nghĩa vụ đối với nhà vận hành (từ tháng 6/2025 đối với doanh nghiệp nhỏ)… Các nghĩa vụ chính được áp dụng cho các nhà vận hành và thương nhân không phải là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Truy xuất nguồn gốc cũng sẽ được thực hiện nghiêm ngặt giữa hàng hóa với lô đất nơi sản xuất. Các sản phẩm sẽ cần phải hợp pháp theo luật của quốc gia sản xuất, bao gồm quyền con người, quyền lao động hiện hành và sự đồng thuận thỏa đáng, tự nguyện và được thông báo trước.
Quy định về Chống mất rừng và suy thoái rừng (EUDR) cấm một số nhóm mặt hàng nông - lâm sản có liên quan (trực tiếp hoặc gián tiếp) tới mất rừng được nhập khẩu vào thị trường này. Lý do EU đưa ra là bởi mất rừng là nguyên nhân trực tiếp gây ra biến đổi khí hậu. Nhóm mặt hàng đang nằm trong sự quản lý của EUDR bao gồm gỗ, cà phê, ca cao, dầu cọ, thịt bò, đậu tương, cao su… và các sản phẩm được chế biến từ các nhóm này.
Ngành nông nghiệp tưởng như sẽ không phải chịu thuế carbon vì ít phát thải, và còn hấp thụ carbonic. Tuy nhiên, do sản xuất nông nghiệp cũng tiêu thụ nhiều vật tư, đặc biệt là phân bón, thuốc trừ sâu - những sản phẩm có mức tiêu thụ năng lượng khá cao và để sản xuất ra những vật tư ấy thì đều tiêu tốn năng lượng, phải phát thải.
Thực tiễn cho thấy ở nước ta và một số quốc gia, nhiều diện tích rừng tự nhiên đã bị chuyển đổi sang đất trồng trọt để sản xuất các cây hàng hóa. Điều này là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến mất rừng và suy thoái rừng, tác nhân quan trọng có ảnh hưởng lớn đế biến đổi khí hậu.
Xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong thời gian tới sẽ chịu không ít tác động bởi đạo luật này, trong đó cà phê là mặt hàng chiếm tỉ trọng xuất khẩu lớn nhất của ngành nông, lâm sản của Việt Nam sang thị trường Châu Âu.
Các chuyên gia cho rằng, đằng sau mỗi một sản phẩm, hạt cà phê, cao su, tiêu, điều, gỗ… đều là một sự "đóng góp" vào việc phát thải ra môi trường. Chúng ta không nhìn thấy ngay việc phát thải khi cầm trên tay một sản phẩm, nhưng nếu lần lại quá trình sản xuất ra sản phẩm đó thì sẽ rõ sản phẩm có thân thiện với môi trường hay không. “Dấu chân cacbon- footprint”- được tính bằng tổng lượng khí nhà kính thải ra trong suốt chu trình của một sản phẩm từ sản xuất, sử dụng, đến thải bỏ, thường được mô tả bằng khối lượng carbon dioxide (CO2) tương đương trên một đơn vị sản phẩm - là chỉ số được áp dụng để đo lường tác động từ hoạt động của các doanh nghiệp đến môi trường.EU sẽ đo “footprint” cho mỗi loại hàng hóa được nhập khẩu vào thị trường này. Như vậy, một sản phẩm có “Dấu chân cacbon” lớn sẽ bị EU đánh thuế, làm giảm tính cạnh tranh. Một sản phẩm mà quá trình sản xuất làm mất rừng và suy thoái rừng cũng được coi là gây ra các tác động tiêu cực tới khí hậu và bị EU hạn chế nhập khẩu.
Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu năng lượng, dừng đầu tư và giảm dần điện than, nâng tỷ trọng điện tái tạo. Việc ban hành Quy hoạch Điện VIII vừa qua cũng thể hiện một cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong chuyển đổi cơ cấu năng lượng. Một doanh nghiệp có thể không giảm được việc sử dụng năng lượng, nhưng lựa chọn nguồn năng lượng để tiêu thụ là điều có thể làm được. Ví dụ, thay vì sử dụng điện phát bằng việc đốt than thì sử dụng điện mặt trời, điện gió... Tuy nhiên, mọi thứ không dễ dàng. Điện mặt trời và điện gió là nguồn năng lượng sạch, nhưng phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, thời tiết nên không có tính ổn định, không thể là nguồn điện chủ yếu mà chỉ là nguồn bổ sung. Trong khi đó, điện hạt nhân đã được rút ra khỏi phạm vi xem xét.
Để nâng cao hơn nữa kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam thông qua mạng lưới phân phối nước ngoài thì việc đáp ứng các “tiêu chí bền vững” là yếu tố hết sức quan trọng, đòi hỏi doanh nghiệp xây dựng mô hình sản xuất bền vững, thân thiện với môi trường. Để làm được việc này đòi hỏi các địa phương tập trung hỗ trợ cho những sản phẩm chủ lực, có thế mạnh và thương hiệu.
Bất luận trong hoàn cảnh nào, Việt Nam cũng cần đạt các mục tiêu giảm phát thải để duy trì sức cạnh tranh trong xuất khẩu. Nếu chúng ta quyết tâm thay đổi thì thương mại và thị trường sẽ có sự đột phá và khởi sắc. Câu hỏi này nằm về phía Chính phủ, mỗi bộ, ngành, từng địa phương và mỗi người dân trong sự quyết tâm để tạo nên một cuộc đổi mới, phát huy những “nỗ lực” của thị trường - bước ngoặt mà chúng ta cần tiến đến trong những năm cuối của thập kỷ này.
Vũ Huy Hùng
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT