NGHIÊN CỨU

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Nghiên cứu

Mô hình phát triển thương hiệu sản phẩm gốm sứ mỹ nghệ Việt Nam

05/10/2022

Một số nét tổng quan về gốm sứ mỹ nghệ

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,việc sản xuất hàng gốm sứ mỹ nghệ (GSMN) ở nước ta dựa trên nền tảng là hệ thống 5.400 làng nghề và làng có nghề trên toàn quốc, trong đó có khoảng gần 2.000 làng nghề truyền thống với 115 nghề truyền thống đã được công nhận.

Gốm sứ là mặt hàng truyền thống của Việt Nam với hàng trăm năm lịch sử phát triển với mẫu mã phong phú về loại hình, công dụng, kích cỡ, hình dáng… Người tiêu dùng chọn sản phẩm theo công dụng, kích cỡ, chất men và hình thức cũng như các chi tiết nhái cổ (dáng dấp, họa tiết, màu men…) của sản phẩm.

Gốm sứ mỹ nghệ Việt Nam là tập hợp các sản phẩm được sản xuất bằng phương pháp thủ công có tính mỹ thuật cao và thường gắn với các làng nghề truyền thống, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc và quốc gia. Tiềm năng sản xuất và năng lực cạnh tranh của hàng GSMN ở các vùng của đất nước thể tóm lược như sau:

- Hàng GSMN được sản xuất chủ yếu bằng nguồn nguyên liệu trong nước. Việc tận dụng tiềm năng sẵn có trong nước để đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu hàng GSMN được coi là một lợi thế ít ngành có được, nhất là những sản phẩm truyền thống của các làng nghề như đồ gốm, đồ gỗ, mây tre, tơ lụa, ngà sừng...

- Trong các làng nghề truyền thống sản xuất các mặt hàng GSMN đều có các nghệ nhân hoặc những người thợ lành nghề. Nguồn nhân lực này góp phần tạo ra khối lượng sản phẩm với đủ chủng loại, đa dạng và phong phú đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước và thế giới. Đây là tiềm năng rất lớn để phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu.

- Việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong một số công đoạn sản xuất hàng GSMN đã góp phần giải phóng sức lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm nhưng vẫn giữ được nét truyền thống của hàng GSMN.

- Chủ trương khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, qui hoạch các vùng sản xuất tập trung đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho phát triển các mặt hàng GSMN truyền thống.

- Trong thời gian gần đây, thị trường ngoài nước của một số mặt hàng GSMN truyền thống đã từng bước được mở rộng và tiềm năng vẫn còn rất lớn.

Tuy nhiên những khó khăn cũng không phải là nhỏ:

- Cơ sở hạ tầng cho sản xuất GSMN tuy đã được Nhà nước quan tâm đầu tư nhưng vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển.

- Khả năng tiếp cận thị trường còn yếu, hệ thống phân phối hàng GSMN chưa phát triển. Việc giới thiệu sản phẩm ở các hội chợ quốc tế cũng như tại các Trung tâm giới thiệu sản phẩm còn hạn chế. Các doanh nghiệp còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm hiểu nhu cầu thị trường, tiếp cận với các đối tác nước ngoài...

- Hầu hết các doanh nghiệp (DN) kinh doanh mặt hàng GSMN đều gặp khó khăn về mẫu mã do thiếu nghệ nhân và các chuyên gia giỏi. Các sản phẩm GSMN của Việt Nam chậm được đổi mới về kiểu dáng, họa tiết, hoa văn, đồng thời chưa chú ý đến các mẫu mã phù hợp với văn hóa và nhu cầu các thị trường cụ thể. Nhiều mặt hàng  giá thành cao, sức cạnh tranh yếu.

- Số nghệ nhân và thợ giỏi có trình độ cao ngày một ít đi và nhiều làng nghề truyền thống ở Việt Nam đang dần thất truyền.

- Đa số các hoạt động sản xuất GSMN trong các làng nghề đều là tự phát, chủ yếu là các hộ kinh doanh cá thể, các cơ sở sản xuất quy mô lớn chưa nhiều. Việc mở ra các cơ sở sản xuất riêng biệt dẫn đến cạnh tranh bằng mọi giá để có được khách hàng, làm giảm đi lợi thế về giá, chưa kể đến yếu tố có sự trùng lắp của các mẫu mã thiết kế... làm giảm tính sáng tạo của người lao động.

- Thủ tục vay vốn và việc thực thi quy định ưu đãi của Chính phủ còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ. Đa số các DN kinh doanh mặt hàng này là các DN vừa và nhỏ, thậm chí chỉ là các hộ gia đình sản xuất theo đơn đặt hàng của các DN nên rất khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng theo chính sách ưu đãi của Nhà nước.

Thương hiệu hàng gốm sứ mỹ nghệ

Các sản phẩm GSMN Việt Nam hiện nay thường gắn liền với những giá trị văn hoá truyền thống, chỉ dẫn địa lý và các đặc điểm về kỹ thuật sản xuất của các nghệ nhân ở một làng nghề nhất định. Nói đến thương hiệu hàng GSMN Việt Nam hiện nay có thể xem xét, nhìn nhận như một thương hiệu ngành hàng (THNH).

Hiện trong các văn bản pháp lý chưa có một khái niệm chính thức nào về THNH, tuy nhiên, theo tiếp cận hiện đại có thể hiểu THNH là một thương hiệu tập thể được xác lập dựa trên những tiêu chí nhất định về các nhóm sản phẩm tương đồng của nhiều cơ sở sản xuất và kinh doanh khác nhau trong cùng một liên kết, với quy mô rộng trong toàn ngành hàng (Nguyễn Quốc Thịnh, 2019). Từ tiếp cận này, có thể hình dung, THNH sẽ được thể hiện ở 3 cấp độ: (1) Thương hiệu tập thể của sản phẩm (gắn với hiệp hội ngành hàng hoặc nguồn gốc xuất xứ và chỉ dẫn địa lý, làng nghề); (2) Tập hợp của các thương hiệu cá biệt điển hình của các doanh nghiệp trong ngành; (3)Thương hiệu của một số doanh nghiệp có uy tín, thế mạnh trong ngành. Như vậy, thương hiệu ngành hàng GSMN có thể hiểu là thương hiệu chung, thể hiện những dấu hiệu nhận biết, phân biệt và những ấn tượng trong tâm trí người tiêu dùng và công chúng về các sản phẩm GSMN mang những đặc điểm đặc thù riêng có từ yếu tố văn hóa truyền thống, thổ nhưỡng, nghệ thuật hay kỹ thuật sản xuất và các ấn tượng khác của những vùng, miền, địa phương cụ thể trên lãnh thổ Việt Nam.

Thương hiệu hàng GSMN cũng có đầy đủ các đặc điểm của thương hiệu ngành hàng nói chung, đó là:

+ Thương hiệu đồng chủ sở hữu, nghĩa là chủ sở hữu của thương hiệu tập thể là của nhiều thành viên (các đơn vị thành viên độc lập tham gia vào liên kết). Điều này cũng đồng nghĩa với việc không một chủ thể cá biệt nào có quyền tự mình định đoạt (chuyển nhượng, thay đổi, chia tách, sáp nhập…). Nó chỉ được sang nhượng khi có sự đồng ý của tất cả các thành viên là đồng chủ sở hữu.

+ Việc sử dụng và khai thác là có điều kiện, nghĩa là không phải bất kỳ DN nào cũng có thể khai thác và sử dụng THNH và khi sử dụng, khai thác sẽ phải tuân theo những quy định nhất định (nghĩa vụ tài chính, phạm vi sử dụng, nhóm sản phẩm sử dụng, đăng ký thành viên...).

+ Thương hiệu ngành hàng thường ít đứng độc lập mà luôn gắn với các thương hiệu riêng của từng đơn vị thành viên trong liên kết (hình thành mô hình đa thương hiệu). Mỗi đơn vị thành viên luôn có thương hiệu riêng của mình và họ luôn tìm cách để phát triển thương hiệu của mình song hành cùng với sự phát triển của THNH và bao giờ cũng vậy, thương hiệu riêng của đơn vị thành viên luôn được chú trọng phát triển trước hết. Việc khuyếch trương THNH thực chất là để tạo dựng và làm nền tảng cho phát triển thương hiệu riêng của đơn vị thành viên.

+ Sự phát triển của THNH luôn có có vai trò của các cá nhân hoặc tổ chức thành viên có uy tín với sự hỗ trợ đắc lực từ phía chính quyền địa phương. Thực tế cho thấy, khi thiếu vắng những trụ cột (là DN mạnh, DN đóng vai trò chủ chốt trong liên kết của thương hiệu tập thể) và sự hỗ trợ của chính quyền địa phương thì THNH khó có cơ hội phát triển.

Mô hình phát triển thương hiệu sản phẩm GSMN Việt Nam

Thực chất của phát triển thương hiệu ngành hàng GSMN là phát triển thương hiệu tập thể song hành cùng với thương hiệu riêng của DN.Tuy nhiên, hầu như đa số sản phẩm GSMN Việt Nam đều được bán qua các nhà nhập khẩu hoặc các trung gian thương mại, nên sự xuất hiện của thương hiệu DN trên sản phẩm là rất ít gặp.Các sản phẩm thường chỉ được chỉ dẫn là "Sản phẩm của Việt Nam - Product of Vietnam".

Về cơ bản những bước trong quy trình xây dựng thương hiệu tập thể cũng tương tự như các bước trong quy trình xây dựng thương hiệu nói chung. Các bước nghiệp vụ này được thể hiện ở mô hình dưới đây:

Hình 01. Các bước nghiệp vụ cơ bản trong xây dựng thương hiệu

Nguồn: Nguyễn Quốc Thịnh (2008)

Trong thời gian tới, hoạt độngphát triển thương hiệu sản phẩm GSMN cần tập trung vào các nội dung chủ yếu sau:

(1) Lựa chọn định hướng phát triển thương hiệu và thiết lập hệ thống nhận diện thương hiệu

Thương hiệu sản phẩm GSMN Việt Nam có thể được thiết lập theo hướng khai thác thương mại các nhãn hiệu chứng nhận hoặc xây dựng, phát triển thương hiệu tập thể với những quy chuẩn chung về sản phẩm. Theo đó :

- Với định hướng khai thác thương mại các nhãn hiệu chứng nhận,các cơ quan quản lý sẽ xây dựng các chuẩn mực chất lượng sản phẩm và những quy chuẩn khác về điều kiện sử dụng khai thác. Chỉ những sản phẩm đạt chuẩn mực chất lượng quy định và những cơ sở tuân thủ các quy chuẩn về điều kiện khai thác sử dụng mới được mang THNH.

- Với định hướng xây dựng, phát triển thương hiệu tập thể với những quy chuẩn về sản phẩm, các tổ chức tập thể sẽ tạo dựng một hình ảnh chung cho ngành hàng và các cơ sở sản xuất kinh doanh tham gia cùng nhau tạo dựng theo những quy chuẩn và điều khoản nhất định. Với mô hình này, rất cần một liên kết mạnh trong tổ chức tập thể và sự định hướng, dẫn dắt của các đơn vị quản lý ngành hàng.

- Việc thiết lập hệ thống nhận diện THNH là cần thiết và cần đảm bảo được các yêu cầu cơ bản như: Nhận diện nhanh và phân biệt tốt với các thương hiệu riêng của các thành viên trong tổ chức tập thể cũng như các thương hiệu khác; Thể hiện và truyền tải được những giá trị riêng có của ngành hàng, phù hợp với ý tưởng định vị thương hiệu, dễ sử dụng trong các hoạt động truyền thông và thể hiện trong mô hình đa thương hiệu (khi gắn kết đồng thời giữa THNH và thương hiệu của từng cơ sở sản xuất kinh doanh), có khả năng bảo hộ quốc tế và dễ hiểu đối với khách hàng nước ngoài…

- Thương hiệu ngành hàng về thực chất là thương hiệu tập thể, do đó cần phải có một tổ chức tập thể xây dựng, duy trì và quản lý.

Quy chế quản lý THNH là chế tài để quản lý các thành viên tham gia và các hoạt động từ sản xuất đến cung ứng và tiêu thụ sản phẩm mang THNH. Nội dung của Quy chế thường bao gồm:

- Các quy định đối với thành viên tham gia như: điều kiện tham gia tổ chức tập thể, quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên, phạm vi, điều kiện hoạt động của Ban kiểm soát nội bộ, Ban lãnh đạo của tổ chức tập thể…

- Các quy định về sản xuất, kinh doanh và sản phẩm như: quy định các điều kiện sản xuất, kiểm soát sản phẩm về số và chất lượng, quy chuẩn chất lượng cho các sản phẩm mang THNH…

- Các quy định về sử dụng, khai thác THNH như: các điều kiện sử dụng và khai thác THNH, các hoạt động quảng bá thương hiệu …

(2)Tạo dựng và phát triển các giá trị cảm nhận của sản phẩm và thương hiệu

Để phát triển các giá trị cảm nhận, điều quan trọng là phải quản lý được chất lượng sản phẩm cung ứng dựa trên khả năng đáp ứng nhu cầu thường xuyên thay đổi, nghĩa là nắm bắt được nhu cầu để từ đó không ngừng duy trì, điều chỉnh và nâng cao chất lượng sản phẩm. Hãy tìm cách tốt nhất để cho khách hàng thấy được những giá trị và lợi ích mà thương hiệu và sản phẩm mang lại. Điều đó nghĩa là, một sản phẩm tốt chưa đủ, mà cần cách thức cung ứng sản phẩm thuận tiện nhất, có văn hoá, tôn trọng khách hàng, tôn trọng cộng đồng. Các hoạt động cần tiến hành như:

- Xây dựng bộ tiêu chuẩn cho sản phẩm mang thương hiệu tập thể của ngành hàng. Dù lựa chọn mô hình nào cho THNH thì vấn đề xác lập bộ tiêu chuẩn cho sản phẩm và quy chuẩn hoạt động của các thành viên cần được chú trọng. Các tiêu chuẩn về đặc tính, các yêu cầu chất lượng, an toàn… cần phải được xác lập và kiểm soát việc tuân thủ.

- Cải tiến và hoàn thiện sản phẩm theo hướng nâng cao giá trị sử dụng (đảm bảo các chỉ tiêu vệ sinh,an toàn, nâng cao các thuộc tính cốt lõi, công dụng…), nâng cao giá trị cảm nhận (cách thức cung ứng sản phẩm,cam kết về chất lượng, chứng thực chất lượng của bên thứ 3, cải thiện kết cấu và bao bì, nhạn mác…).

- Tiến hành thường xuyên các hoạt động kiểm soát nội bộ các cơ sở thành viên trong liên kết về quá trình sản xuất, chế biến và cung ứng sản phẩm ra thị trường để đảm bảo tuân thủ đầy đủ các tiêu chuẩn quy định nhằm chống sự sa sút thương hiệu từ bên trong ngành hàng.

- Quan trắc thị trường để phát hiện sản phẩm không đáp ứng tiêu chuẩn và doanh nghiệp vi phạm các quy định chung của ngành là những biện pháp thích hợp và tối quan trọng để xây dựng và phát triển các giá trị cảm nhận cho THNH.

- Phát triển các sản phẩm mới để đa dạng và mở rộng phổ sản phẩm của ngành hàng, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu đa dạng và phát sinh của thị trường. Chuẩn hoá và khuyến khích các thành viên gia tăng các dịch vụ bổ sung cho sản phẩm mang THNH.

(3) Xây dựng và phát triển nhận thức về thương hiệu

Để nâng cao nhận thức về THNH, cần tập trung nhiều hơn vào các thông tin như giá trị hữu dụng, những giá trị bổ sung đi cùng sản phẩm, thông tin khẳng định những cam kết mà các doanh nghiệp trong ngành hàng đưa đến cho cộng đồng (cam kết về chất lượng, cách thức cung ứng và xử lý các tình huống…). Theo đó:

- Quảng cáo luôn được xem là công cụ quan trọng để có thể đưa nhanh hình ảnh thương hiệu và sản phẩm đến với công chúng thông qua các phương tiện như tờ rơi, catalogue, báo, tạp chí, mạng internet, quảng cáo ngoài trời, radio, Ti vi… Đương nhiên, vấn đề quan trọng cần xem xét khi tiến hành quảng cáo, đó là hiệu quả của hoạt động.

- Xuất phát từ đặc điểm của hoạt động quan hệ công chúng (Public Realation - PR) có tính khách quan cao, hướng đến việc tạo dựng những quan niệm và nhận định dài lâu về sản phẩm và thương hiệu, nên PR cần được quan tâm trong truyền thông thương hiệu. Có thể tổ chức các hoạt động tài trợ sự kiện và tài trợ cộng đồng, xử lý linh hoạt các tình huống khủng hoảng… để phát triển nhận thức về THNH.

- Gia tăng và hoàn thiện các điểm tiếp xúc thương hiệu (Touch points) như phát triển điểm bán, phát triển giao tiếp của doanh nghiệp với cộng đồng, hoàn thiện bao bì sản phẩm và các ấn phẩm giới thiệu, truyền thông qua website và mạng xã hội… được xem là giải pháp rất có hiệu quả trong việc nâng cao nhận thức thương hiệu của doanh nghiệp và THNH.

Hoạt động truyền thông thương hiệu không những được tiến hành riêng lẻ bởi các DN đồng chủ sở hữu thương hiệu tập thể mà cần nhiều hơn các hoạt động tập thể của cả ngành hàng như tổ chức và tham gia các hội chợ, triển lãm, trưng bày sản phẩm, hội thảo và các hoạt động xúc tiến thương mại khác.

Dựa trên lý thuyết và quá trình thực tiễn triển khai hoạt động phát triển thương hiệu sản phẩm GSMN Việt Nam trong những năm vừa qua,có thể áp dụng mô hình phát triển thương hiệu sản phẩm GSMN Việt Nam với các bước như sau:

Hình 02: Mô hình phát triển thương hiệu sản phẩm GSMN

Nguồn: Nguyễn Quốc Thịnh, 2018

 

Một số thương hiệu GSMN điển hình

Các làng nghề, doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh gồ gốm mỹ nghệ thường tự thiết kế logo và website giới thiệu các sản phẩm của riêng mình.

Bát Tràng là một làng gốm lâu đời, nổi tiếng, có nhiều truyền thống văn hóa, vừa mang những sắc thái cộng đồng chung của làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ, vừa phản ánh những nét đặc thù của nghề gốm. Thương hiệu gốm sứ Bát Tràng, ngoài logo được thiết kế riêng cho làng nghề gốm sứ Bát Tràng thì các cửa hàng kinh doanh, hợp tác xã thường đầu tư thiết kế logo và website cho riêng cho mình.

Hình 03. Logo một số sản phẩm GSMN Bát Tràng

Hình 04. Sản phẩm gốm Bát Tràng

Thương hiệu gốm sứ Minh Long đặc biệt quan tâm đến việc thiết kế hệ thống nhận diện trong đó có logo và slogan cho thương hiệu của mình. Tuy nhiên việc sử dụng quá nhiều logo khác nhau cho sản phẩm của mình cũng có thể khiến người tiêu dùng giảm đi khả năng ghi nhớ,  nhận biết và phân biệt đối với thương hiệu. Ngoài logo được thiết kế chung cho tất cả các sản phẩm của Minh Long thì mỗi dòng sản phẩm lại được thiết kế riêng một logo cho riêng mình, trong đó có logo dành cho sản phẩm gốm sứ mỹ nghệ (logo thứ 3).

Hình 05. Logo gốm Minh Long

Nghề gốm Phù Lãng được hình thành và phát triển ở đây vào khoảng thời Trần, thế kỷ XIV. Ngày nay, nhờ bàn tay khéo léo, tài hoa của các nghệ nhân, làng gốm đã sáng tạo ra nhiều mặt hàng mĩ nghệ như các loại đôn, tranh gốm, ấm chén, gốm trang trí, lọ hoa, chậu cảnh, chậu hoa, các loại con vật như chó, nghê, cá, rồng… được nhiều người chuộng dùng.

Khác với gốm Thổ Hà, gốm Phù Lãng được phủ một lớp men có hoa văn màu da lươn vừa thanh nhã, vừa bền đẹp, dáng gốm mộc mạc, khỏe khoắn... Ngày nay, tiếp nối "thời vang bóng", ở Phù Lãng vẫn còn những lò gốm đang đỏ lửa. Tuy nhiên gốm Phù Lãng vẫn chưa phát triển được thương hiệu tập thể do các hộ sản xuất vẫn độc lập và không liên kết với nhau.Không có hợp tác xã hay Hiệp hội đứng ra hỗ trợ chung. Hoạt động phát triển thương hiệu không bài bản và đơn lẻ.

Hình 06. Sản phẩm gốm Phù Lãng

Gốm Chu Đậu là dòng gốm có men xương. Nếu như các bức tranh thủy mặc của Trung Quốc được đánh giá ở 04 tiêu thức:Tinh - Vi - Diệu - Xảo, quan họ Bắc Ninh được đánh giá ở : Vang - Rền - Nền - Nảy , thì đỉnh cao của gốm Chu Đậu được gói gọn trong 5 tiêu chí, đó là: Trongnhư ngọc - Trắng như ngà - Mỏngnhư giấySángnhư gương vàKêunhư chuông. Sau 500 năm thất truyền,hiện gốm Chu Đậu đang hồi sinh và phát triển, đạt được 3,0 /5 tiêu chí,dần trả lại một chương trong kho tàng di sản nghệ thuật văn hoá vô giá tưởng chừng như đã vĩnh viễn mất đi.Gốm Chu Đậu hiện có 03 dòng sản phẩm:

- Sản phẩm truyền thống theo hướng phục chế gốm Chu Đậu cổ,được sản xuất vẽ thủ công,công nghệ truyền thống.

- Sản phẩm gốm sứ gia dụng, phục vụ nhu cầu nhật dụng.

- Sản phẩm phục vụ xuất khẩu (chậu hoa, đôn…) có sự kết hợp đường nét, hoa văn của Chu Đậu cổ và hiện đại. Sản xuất theo yêu cầu của khách (hoa văn hiện đại), họa tiết do công ty thiết kế hoặc do khách hàng đề xuất.

Hai trong số hàng chục loại gốm Chu Đậu gây ấn tượng,trở thành sản phẩm nổi tiếng, được ưa chuộng nhất với người sành đồ cổ là Bình gốm Hoa Lam (còn gọi là bình củ tỏi) và bình Tỳ Bà, còn được gọi là bình cha, mẹ tượng trưng cho âm dương - trời đất - vợ chồng , tượng trưng cho nền nếp của một gia đình hạnh phúc.

Hình 07 : Hai bình gốm đặc trưng của gốm Chu Đậu

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • Nguyễn Quốc Thịnh - Nguyễn Thành Trung (2009), “Thương hiệu với nhà quản lý”, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà Nội.
  • Trần Khánh Chương (2004), “Gốm Việt Nam từ đất nung đến sứ”, Nhà xuất bản Mỹ Thuật.
  • Trần Khánh Chương (2001), “Gốm Việt Nam", Nhà xuất bản Mỹ Thuật
  • Phan Huy Lê, Nguyễn Đình Chiến, Nguyễn Quang Ngọc (1995), “Gốm Bát Tràng thế kỷ XIV-XIX”, Trung tâm hợp tác Nghiên cứu Việt Nam- Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.
  • Phạm Quốc Quân, Nguyễn Đình Chiến (2005), “Gốm Hoa Nâu Việt Nam”, Bảo tàng Lịch Sử Việt Nam
  • Trương Minh Hằng (2006), “Gốm Sành Nâu ở Phù Lãng”, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.
  • Nguyễn Đình Chiến, Phạm Quốc Quân, (2005), “2000 năm gốm Việt Nam”, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.
  • Tăng Bá Hoành, (1999), “Gốm Chu Đậu”, Bảo tàng Tỉnh Hải Dương.
  • TS. Nguyễn Vĩnh Thanh (2005), “Xây dựng thương hiệu sản phẩm làng nghề truyền thống ở đồng bằng sông Hồng hiện nay”, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
  • PGS. TS. Nguyễn Quốc Thịnh và cộng sự (2004), “Một số giải pháp chủ yếu xây dựng và bảo vệ thương hiệu cho hàng Việt Nam xuất khẩu trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, Bộ Thương mại.

Vũ Huy Hùng

Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến thương mại - VIOIT

Th.S Nguyễn Thị Hồng Lan

    Đại học FPT- Greenwich

 

BÀI VIẾT KHÁC