NGHIÊN CỨU

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Nghiên cứu

Hiệp định Thương mại tự do và những tác động tới kinh tế Việt Nam (Phần 8)

10/08/2023

3. Giải pháp đối với Nhà nước, doanh nghiệp và hiệp hội

Đại dịch Covid-19 làm đảo lộn mọi mặt đời sống kinh tế-xã hội, xong Li Edelkoort - một trong những chuyên gia dự đoán xu hướng (trend forecaster) có tầm ảnh hưởng nhất hiện nay, cho rằng: Virus corona đã tặng chúng ta “trang giấy trắng cho một khởi đầu mới”. Virus giống như một "sự sửa chữa tuyệt vời" cho thế giới - thông điệp sâu sắc qua góc nhìn của tỷ phú Bill Gates. Có thể nói đây chính là thời điểm tư duy lại, thiết kế lại, xây dựng lại gắn với việc nhận diện xu thế; định vị thị trường, đối tác; xác định cách thức chuyển đổi số; nâng cấp quản trị (cả quản trị rủi ro); sáng tạo sản phẩm; đào tạo kỹ năng mới cho người lao động.

Đại hội XIII của Đảng đã mở ra tầm nhìn, định hướng phát triển mới của đất nước. Đại hội đặt ra mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành trở thành một nước thu nhập cao, thịnh vượng… một Việt Nam “bắt kịp” và “tiến cùng” thời đại.

Nền kinh tế thị trường hướng tới ở nước ta sẽ phải là nền kinh tế thị trường hiện đại và giàu tính nhân văn. Định hướng XHCN của mô hình kinh tế thị trường mà ta đang lựa chọn thể hiện ở bản chất nhân văn của nó.

Phát triển, mở rộng hợp tác với các quốc gia và vùng lãnh thổ, củng cố, nâng cao năng lực cạnh tranh ở cả 3 phạm vi: quốc gia - DN - sản phẩm, thực thi tự do hoá thương mại với những bước đi và tốc độ phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của mình… có thể nói đó chính là “kim chỉ nam” để Việt Nam có thể  rút ngắn con đường phát triển của mình mà lịch sử thế giới phải trải qua hàng trăm năm mới có. Đây cũng có thể xem  là “lối mở” hợp quy luật đối với Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.

Để thực hiện những định hướng nêu trên, cần chú trọng xử lý những vấn đề cơ bản sau:

3.1. Về cải cách thể chế

Đại hội Đảng lần thứ VII đã quyết nghị đổi mới toàn diện đường lối kinh tế từ bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường, coi trọng khuyến khích đầu tư tư bản trên bình diện rộng. Một bước đi thuận quy luật mang giá trị “Chiến lược thích nghi thời đại”, đã tạo được sức hấp dẫn mạnh mẽ. Vấn đề chủ yếu là có tạo ra được những nguyên tắc và tiền đề cần thiết để các thể chế của kinh tế thị trường có thể hoạt động một cách bình thường hay không. Nếu không tạo được những điều kiện, tiền đề như vậy, thể chế kinh tế thị trường có thể tồn tại trên danh nghĩa nhưng không thể phát triển được hoặc sẽ phát triển một cách méo mó,các quan hệ thị trường bị biến dạng nghiêm trọng, gây tổn thất ở mức độ khác nhau cho nền kinh tế.

Đột phá để thực thi có hiệu quả các FTA, đáp ứng nhu cầu hội nhập, tham gia vào các chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị toàn cầu, cần tập trung vào một số công việc cấp bách sau :

- Việc kiểm soát hoặc ngăn chặn hình thành độc quyền đòi hỏi một quyết tâm chính trị rất cao, vượt qua được những lợi ích của một số nhóm người liên kết với nhau. Độc quyền đem lại những đặc quyền, đặc lợi mới cho một nhóm ít người ,trong khi toàn thể xã hội phải trả giá. Vì vậy, duy trì độc quyền trong kinh doanh là phản tiến bộ.

- Hội nhập đòi hỏi phải chấp nhận “Luật chơi” và “Cách chơi” khi đi “Chợ quốc tế”. Không có hệ thống pháp luật phù hợp, không có môi trường kinh doanh thì không thể khai thác được lợi thế của các FTA. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang bắt đầu thực hiện ở nước ta, với nhiều vấn đề mới nảy sinh mà chưa có pháp luật điều chỉnh. Do đó, cần có cách tiếp cận thích hợp để không lấy luật pháp hiện hành điều chỉnh hành vi mới và không căn cứ vào luật pháp hiện hành để coi hành vi mới là vi phạm luật pháp, bởi cả hai cách ứng xử đó đều cản trở đổi mới và sáng tạo.

 - Cải cách thể chế môi trường kinh doanh cần có bước đi phù hợp, nhưng phải đặt trong mối quan hệ hệ thống. Việc làm trước phải mở đường cho việc làm sau, không tạo ra xung đột pháp lý và mâu thuẫn chính sách,làm sao để nền kinh tế tiếp cận nhanh với các chuẩn mực, thông lệ kinh doanh của thế giới mà các nước đi trước phải mất hàng trăm năm mới có.

Thực tế cho thấy môi trường kinh doanh mặc dù đã được cải thiện song tự do hoá với bên ngoài chưa thực sự đi kèm với tự do hoá các nguồn lực bên trong. Cải cách thể chế môi trường kinh doanh cần có bước đi phù hợp, nhưng phải đặt trong mối quan hệ hệ thống, không tạo ra xung đột pháp lý và mâu thuẫn chính sách, làm sao để nền kinh tế tiếp cận nhanh với các chuẩn mực, thông lệ kinh doanh của thế giới.

Thủ tục hành chính phải được thể chế hóa và đòi hỏi thực thi nghiêm minh. Bên cạnh đó cũng rất cần một đội ngũ cán bộ công chức có năng lực, được đào tạo cơ bản, có đạo đức nghề nghiệp.

Thay đổi tư duy trong bộ máy hành chính là một nội dung quan trọng. Thủ tục hành chính cũng phải được thể chế hóa và đòi hỏi thực thi nghiêm minh. Bên cạnh đó cũng rất cần một đội ngũ cán bộ công chức có năng lực, được đào tạo cơ bản, có đạo đức nghề nghiệp. Nếu chỉ loay hoay bỏ mấy điều kiện kinh doanh, cải cách hành chính thì không thể mở rộng được quy mô thị trường, không thay đổi cơ chế phân bổ nguồn lực để tạo ra động lực tăng trưởng, thúc đẩy nền kinh tế bứt phá. Vì thế cần đẩy nhanh việc  xây dựng thị trường các nhân tố sản xuất.

- Luật Thương mại và các cơ chế, chính sách quản lý rất cần bổ sung và hoàn thiện nhằm tạo điều kiện thực hiện thuận lợi hóa thương mại. Luật thuế xuất, nhập khẩu cũng cần được sửa đổi cho thống nhất, đồng bộ với quy định của Hiến pháp và các bộ luật hiện hành; tương thích với các cam kết và điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc đang đàm phán. Luật DN cần quy định cách tiếp cận mới để kịp thời xử lý các hành vi kinh doanh mới của nền kinh tế số, vừa để không xảy ra “khoảng trống pháp lý”, vừa tạo thuận lợi cho hành vi kinh doanh mới được thực hiện và phát triển. Luật Đầu tư và Luật DN (sửa đổi) cần quy định cách tiếp cận mới để kịp thời xử lý các hành vi kinh doanh mới của nền kinh tế số, vừa để không xảy ra “khoảng trống pháp lý”, vừa tạo thuận lợi cho hành vi kinh doanh mới được thực hiện và phát triển.

- Cần có khung pháp lý riêng cho đối tượng của hoạt động thanh tra là doanh nghiệp, có thể là một chương trong Luật Thanh tra sửa đổi. Đề đảm bảo giảm gánh nặng thanh tra cho DN, cần xác định rõ quan hệ giữa quy định của luật này với quy định về thanh tra chuyên ngành trong các văn bản luật khác, đảm bảo tuân thủ theo nguyên tắc chung.

 - Các bộ, ban, ngành cần tạo đột phá mới về cải cách điều kiện kinh doanh. Theo đó, DN được chủ động, tự chịu trách nhiệm khi đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về điều kiện kinh doanh. Hoạt động hậu kiểm được thực hiện trong suốt quá trình hoạt động của DN. Đồng thời cần thiết lập kênh ghi nhận phản hồi từ DN một cách công khai, minh bạch và bảo đảm an toàn cho DN...

 - Việc thực thi các cam kết trong các FTA đòi hỏi phải :

+ Thường xuyên rà soát, sửa đổi, điều chỉnh, xóa bỏ các quy định không phù hợp với các cam kết FTA. Hướng dẫn,giải thích cách hiểu và áp dụng thống nhất quy định của FTA trong lĩnh vực quản lý chuyên  ngành trong trường hợp có sự khác nhau về cách hiểu và áp dụng các quy định đó.

+ Chủ động tiến hành đánh giá mức độ cạnh tranh của các ngành để trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch nâng cao khả năng cạnh tranh cho những ngành có lợi thế cạnh tranh và định hướng điều chỉnh sản xuất cho các các ngành, doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh để tận dụng tối đa những lợi ích từ các FTA. Định kỳ hàng năm hoặc theo yêu cầu, báo cáo Ban chỉ đạo liên ngành Hội nhập quốc tế về kinh tế về kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao. 

+ Thực hiện theo dõi sát sao các diễn biến chính trị - an ninh - kinh tế trong khu vực và trên thế giới, tình hình quan hệ đối ngoại của Việt Nam nhằm dự báo và đề xuất giải pháp đối với các vấn đề có thể ảnh hưởng đến quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước đối tác FTA; kịp thời cung cấp các thông tin về chính sách của các nước đối tác FTA và hỗ trợ hiệu quả các DN và thu hút đầu tư.

+ Nghiên cứu, vận dụng các biện pháp bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ nhằm đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ trong nước, phù hợp với trình độ và định hướng phát triển công nghệ của Việt Nam trong thời gian tới, đồng thời đảm bảo phù hợp với các FTA mà Việt Nam tham gia.

+ Hỗ trợ nâng cao năng lực hội nhập, cạnh tranh của các doanh nghiệp và hiệp hội Việt Nam; Hỗ trợ hoạt động nghiên cứu, thông tin thị trường, tìm kiếm đối tác tiềm năng, mở rộng mạng lưới kinh doanh, XTTM cho doanh nghiệp.

+ Xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp lý, chính sách phát triển dịch vụ logistics, đồng thời chuẩn hóa quy trình dịch vụ, nâng cấp cơ sở hạ tầng và chất lượng nguồn nhân lực.

+ Xây dựng cơ chế, chính sách nâng cao năng lực, hiệu quả cung cấp và phát triển dịch vụ hỗ trợ XK của Việt Nam

+ Tăng cường đào tạo, phổ biến kiến thức và chính sách, pháp luật thương mại của các nước cho các địa phương, doanh nghiệp để tận dụng các ưu đãi trong các cam kết FTA và có biện pháp tích cực, chủ động phòng tránh các hàng rào trong thương mại để phát triển XK các mặt hàng chủ lực, mặt hàng mới của Việt Nam.

+ Phát triển các trung tâm đào tạo nguồn nhân lực về công nghiệp hỗ trợ, phát triển thị trường, vận hành công nghệ mới nhằm đảm bảo từng bước thực hiện việc nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ công nghệ tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh cao.

+ Nghiên cứu, xác định các thị trường mới, thị trường tiềm năng để đề xuất, thiết lập các cơ chế hợp tác Ủy ban liên Chính phủ, Ủy ban hỗn hợp, Tiểu ban hỗn hợp hỗ trợ thúc đẩy trao đổi thương mại.

+ Tăng cường cơ chế trao đổi thông tin ở các cấp hoạch định và thực thi chính sách để xử lý vướng mắc, rào cản thương mại và các vấn đề nổi cộm lớn, đặc biệt là vấn đề kiểm dịch động thực vật, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm tại các thị trường có yêu cầu khắt khe về điều kiện nhập khẩu (Nhật Bản, Australia, New Zealand, EU, Anh).

+ Thực hiện các giải pháp tổng thể hỗ trợ doanh nghiệp tham gia hoạt động xúc tiến thương mại tại thị trường ngoài nước, đặc biệt là tại các hội chợ chuyên ngành thường niên uy tín giúp kết nối với các hệ thống phân phối và thu hút được nhiều đối tác trên thế giới tại các thị trường FTA.

+ Khuyến khích thúc đẩy ứng dụng thương mại điện tử và IoT trong hoạt động XTTM và thông tin thương mại ở cả các cơ quan hỗ trợ thương mại nhà nước, các hiêp hội và doanh nghiệp.

+ Tăng cường công tác xây dựng, quảng bá thương hiệu hàng hóa Việt Nam gắn với các hoạt động xúc tiến thương mại tại các thị trường XK nhằm xây dựng hình ảnh, tạo cơ sở phát triển XK hàng Việt Nam ổn định, vững chắc. Ưu tiên hỗ trợ thâm nhập thị trường nước ngoài đối với các thương hiệu hàng hóa thuộc Chương trình Thương hiệu quốc gia.

+ Nghiên cứu cơ chế chính sách nhằm động viên, khuyến khích doanh nghiệp, Hiệp hội và người Việt Nam ở nước ngoài từng bước xây dựng kênh phân phối hàng hóa Việt Nam tại nước sở tại.

+ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, đào tạo, tập huấn để nâng cao kiến thức của các cơ quan quản lý nhà nước liên quan, hiệp hội, doanh nghiệp, luật sư, chuyên gia kinh tế, pháp lý về pháp luật cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ, về các vụ điều tra phòng vệ thương mại, vụ kiện trong thương mại quốc tế cũng như quy định, thủ tục điều tra của một số nước thường xuyên tiến hành các biện pháp phòng vệ thương mại trong thương mại quốc tế.

+ Khuyến khích doanh nghiệp chủ động phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước trong chuẩn bị, ứng phó và tham gia vào các vụ việc cụ thể để đảm bảo các quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, hàng hóa Việt Nam tại thị trường nước ngoài.

+ Tiếp tục củng cố và triển khai hệ thống cảnh báo sớm về phòng vệ thương mại.

+ Khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng chiến lược XK của doanh nghiệp phù hợp với đặc thù từng thị trường; hình thành đại diện của doanh nghiệp, Hiệp hội ở các thị trường trọng điểm; nghiên cứu, đầu tư mở kho ngoại quan ở các nước có khoảng cách địa lý xa Việt Nam tại châu Mỹ, châu Âu để hỗ trợ cho hoạt động XK.

+ Tạo thuận lợi cho nhập khẩu nguyên liệu cạnh tranh để phát triển sản xuất, XK một số ngành hàng chủ lực mà Việt Nam đang có cơ hội từ các tập đoàn lớn của các nước phát triển...

Rất cần có bộ máy chuyên môn với chức năng nhiệm vụ rõ ràng,thực thi việc theo dõi,giám sát, đánh giá hiệu lực của pháp luật và thể chế, kiểm soát độ mở của nền kinh tế. Ủy ban Đối ngoại hoặc Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cần có chương trình, kế hoạch (không nhất thiết phải giám sát tối cao), định kỳ 6 tháng hay 1 năm yêu cầu cơ quan chủ trì thực hiện các FTA báo cáo, tạo sức ép khiến các cơ quan thực thi phải thực hiện nghiêm túc các cam kết  FTA.

3.2. Đổi mới hoạt động của doanh nghiệp và hiệp hội

Doanh nghiệp có vai trò trọng yếu trong việc thực thi các FTA, do đó cần :

- Tiếp cận và cập nhật thông tin, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng đáp ứng các yêu cầu về chất lượng, an toàn thực phẩm, chuẩn bị nguồn cung cấp để đảm bảo nguyên liệu đầu vào có nguồn gốc hợp pháp và chất lượng tốt.

- Chủ động đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm,xác lập các liên kết, hình thành các chuỗi cung ứng để có thể tạo được chỗ đứng vững chắc trong các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.

- Doanh nghiệp cần quan tâm đặc biệt các chương về đối xử quốc gia và mở cửa thị trường đối với hàng hóa và chương về quy tắc xuất xứ.

- Tăng cường trao đổi, kết nối, liên doanh, liên kết, hợp tác với doanh nghiệp các nước thành viên FTA nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, có như vậy, doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển khi tham gia FTA thế hệ mới.

- Trước mắt cần tăng cường đầu tư, đổi mới công nghệ trong hoạt động sản xuất và XK, chú trọng vào các nhóm ngành hàng có lợi thế so sánh và cơ hội chuyên môn hoá XK sang các thị trường FTA thế hệ mới, đặc biệt là các nhóm hàng có tiềm năng gia tăng XK lớn nhất gồm: thiết bị điện tử; giày, dép, mũ; hàng dệt may; hàng thủ công mỹ nghệ...

- Về dài hạn, các doanh nghiệp cần chú trọng nâng cao chất lượng, sự đa dạng của sản phẩm và tăng tốc tỷ lệ nội địa hoá để tận dụng được cơ hội trong XK các mặt hàng trên từ các FTA so với các đối thủ cạnh tranh lớn như: Trung Quốc, Bangladesh và Ấn Độ... nhưng những nước này lại chưa ký kết FTA với các nước trong CPTPP hay EVFTA…

- Chủ động tìm hiểu kỹ các yêu cầu về TBTs và RoO đối với hàng hóa xuất nhập khẩu của doanh nghiệp, chủ động tìm hiểu về các biện pháp phòng vệ thương mại của các thị trường FTA, đặc biệt là chống bán phá giá để có thể vượt qua các rào cản phi thuế quan.

- Tăng cường đầu tư sản xuất theo các tiêu chuẩn được thị trường các nước thành viên trong các FTA thế hệ mới công nhận để thúc đẩy XK hàng hóa.

- Để tận dụng được lợi ích từ thương mại nội ngành theo chiều dọc trong nhóm ngành: Phương tiện và thiết bị vận tải; máy móc thiết bị và điện tử… các doanh nghiệp trong các nhóm ngành trên cần có chiến lược đón đầu liên kết, liên doanh với các doanh nghiệp đối tác CPTPP, EU và UKVFTA để thu hút đầu tư, mở rộng sản xuất, học hỏi kinh nghiệm. 

- Để phát triển thương mại liên ngành theo chiều ngang, yếu tố chủ chốt là các doanh nghiệp Việt Nam cần đa dạng hoá các sản phẩm, đi đôi với đó là nâng cao chất lượng các sản phẩm trong nhóm ngành như: Thực phẩm chế biến; đồ uống, thuốc lá; Động vật sống và các sản phẩm từ động vật... Chẳng hạn, doanh nghiệp có thể tập trung khai thác lợi thế về các loại hoa quả nhiệt đới để XK các sản phẩm chế biến sang các nước và có thể nhập khẩu các sản phẩm chế biến hoa quả ôn đới để gia tăng tính đa dạng sản phẩm trên thị trường, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng trong nước. Với nhóm động vật sống, cần thúc đẩy XK thuỷ sản trong khi có những nỗ lực chuẩn bị cho ngành chăn nuôi, đặc biệt là với sản phẩm thịt bò, thịt gà, thịt lợn để có thể hội nhập nhanh.

- Phải quan tâm đến việc tìm hiểu, nghiên cứu, và cập nhật các hàng rào phi thuế quan, đặc biệt là TBTs, SPSs, RoO, chống bán phá giá và SHTT của các nước thành viên CPTPP, EVFTA, UKVFTA liên quan đến ngành sản phẩm của doanh nghiệp mình để không chỉ vượt qua, mà còn tận dụng được các cơ hội mới từ các cam kết phi thuế quan.

- Tập trung đầu tư vào R&D, đầu tư vào nguồn lực con người thông qua hợp tác với các doanh nghiệp các nước nước thành viên trong các FTA mà Việt Nam tham gia và tận dụng các nguồn hỗ trợ đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm sẵn có trong nước như "Chương trình quốc gia về nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam", "Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia", "Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia", "Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia"... Đặc biệt, với các doanh nghiệp nông nghiệp, tập trung đầu tư vào các mặt hàng được các nước thành viên FTA công nhận GI để tranh thủ lợi thế so với các đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường để tăng khả năng XK các mặt hàng nông sản vẫn được coi là nhạy cảm sang các thị trường này.

- Tìm hiểu các biện pháp can thiệp thương mại của thị trường các nước trong các FTA bị đánh giá là có thể gây ra tác hại lớn cho các nước đối tác, đặc biệt là phòng vệ thương mại để tránh nguy cơ bị kiện khi XK của Việt Nam sang các thị trường này gia tăng.

- Nâng cao trách nhiệm trên cơ sở tham gia góp ý vào quá trình xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp theo ngành để Việt Nam không chỉ có được những tiêu chuẩn phù hợp với cam kết, mà còn phù hợp với thực tiễn của các doanh nghiệp trong nước.

- Đối với thị trường XK, cần tiếp tục giữ vững XK sang các thị trường các nước thành viên CPTTP trong ASEAN, Hà Lan, Pháp, Italia, Tây Ban Nha, Áo, Bỉ. Các thị trường gồm: Mehico, Thụy Điển, Malta, Latvia, Cypus và Slovenia là các thị trường ngách nên doanh nghiệp Việt Nam cần tìm hiểu để tận dụng được cơ hội dù là nhỏ nhất từ CPTPP và EVFTA để thúc đẩy XK.

Doanh nghiệp đang tập trung vào thị trường Anh cần xem xét cơ cấu hàng XK để tận dụng được tốt hơn các ưu đãi từ  FTA này.

- Hình thành, đổi mới, nâng cao chất lượng chiến lược quản trị doanh nghiệp theo tiêu chuẩn quốc tế, lấy tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn của các MNC/TNCs làm cơ sở và mục tiêu để thực hiện quản trị doanh nghiệp.

- Lựa chọn, thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại phù hợp với từng thị trường đối tác FTA như tham gia các hội chợ, triển lãm thương mại, tổ chức sự kiện, các chương trình test sản phẩm, kết hợp quảng bá sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp qua các sự kiện văn hóa, thể thao, quảng bá du lịch...

Khi Nhà nước giảm sự can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của DN thì vai trò của hiệp hội là rất quan trọng và cần thiết. Nội dung hoạt động của hiệp hội cần hướng vào:  

 - Phối hợp tốt với Chính phủ và các cơ quan công quyền khác để xây dựng và thực hiện các chiến lược tham gia mạng lưới sản xuất, phân phối toàn cầu (MLSXPPTC- Global production and distribution network - GPDN).

 - Nghiên cứu, tổng hợp các yêu cầu về thông tin của các DN hội viên và tổ chức thực hiện việc cung cấp thông tin chuyên ngành cho các DN hội viên theo yêu cầu, đồng thời có phương án hợp tác, chia sẻ và trao đổi thông tin với các tổ chức xúc tiến thương mại khác...

 - Tổ chức các diễn đàn cho các thành viên gặp gỡ và học hỏi lẫn nhau.

 - Hỗ trợ đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ kỹ thuật, xúc tiến tham gia các liên kết trong GPDN ...

 - Tư vấn cho Chính phủ trong việc hoạch định các chính sách có liên quan tới việc tham gia của DN và sản phẩm vào GPDN.

 - Phổ biến các tiến bộ kỹ thuật, khoa học và công nghệ, những kinh nghiệm về tổ chức quản lý GPDN tiên tiến của các DN thành công trên thế giới.

 - Hiệp hội phối hợp với các chi hội đánh giá khả năng, điều kiện tham gia của DN và sản phẩm vào GPDN để hướng dẫn, hỗ trợ hiệu quả cho việc tham gia của các DN và sản phẩm.

Thực thi việc xã hội hóa việc điều phối ngành hàng cho các Hiệp hội DN  kiểu mới , được trao nhiều quyền lực hơn trong định hướng sản xuất cũng như xuất khẩu. Người sản xuất phải làm theo hợp đồng, người xuất khẩu phải tham gia hiệp hội ngành nghề, tuân thủ luật chơi chung tránh bán phá giá.

3.3.Đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số

Nền kinh tế dựa trên số hóa (digitalisation) là một cuộc đua mà nhiều nước và DN đã tham gia. Kinh tế số hóa (Digital Economy) tác động rất lớn đến nhiều mặt của kinh tế - xã hội, đặc biệt khả năng đột phá (disruption) khi gây khó khăn hay xóa bỏ nhiều mô hình kinh doanh truyền thống. Nhưng để đi đúng hướng và theo kịp cuộc đua thì DN phải đương đầu với nhiều vấn đề cốt lõi như : sự tin cậy (trust), bảo mật (security) và thông tin cá nhân (privacy). Cần đầu tư rất nhiều về nhân sự (skills), công cụ (tools) và hạ tầng công nghệ thông tin để có những chính sách, quy trình, và mô hình phù hợp. Chuyển đổi số là một công cuộc cải biến toàn diện và sâu sắc nhằm khai thác tối đa sức mạnh thời đại và tiến bộ công nghệ để nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh và kiến tạo nền tảng căn bản cho hành trình phát triển lâu dài. Đối với các ngành có ảnh hưởng trực tiếp đến cấu trúc nền kinh tế, sự nhận thức về tính cấp thiết của chuyển đổi số là tất yếu. Cần phải có hướng đi rất cụ thể và chiến lược dài hơi.

Tích hợp công nghệ số hóa, thúc đẩy phát triển những giải pháp sản xuất và kinh doanh dựa trên số hóa; tối ưu hóa mô hình kinh doanh, phát triển kỹ năng mới cho từng cá nhân và tổ chức, sử dụng hiệu quả chuỗi cung ứng thông minh; có giải pháp quản lý tài sản trí tuệ trong thời đại số phù hợp với những mô hình kinh doanh và các mô hình hợp tác mới; phát triển nguồn nhân lực theo hướng tăng cường năng lực tiếp cận, tư duy sáng tạo và khả năng thích ứng với môi trường công nghệ liên tục thay đổi và phát triển… là hàng loạt nội dung cần phải xử lý.

Với DN, chuyển đổi số phải bắt đầu từ những người tiếp cận trực tiếp với khách hàng. Vì thế, DN phải thành lập một nhóm phân tích nghiệp vụ để phân tích lại luồng kinh doanh, lấy được dữ liệu khách hàng được quản trị bằng công nghệ, sử dụng hệ thống công nghệ để tương tác với khách hàng.

Chuyển đổi số trong DN bao gồm rất nhiều mức độ,giai đoạn nhưng chìa khóa thành công là DN phải chủ động, quyết tâm và kiên trì với mục tiêu. Để quá trình chuyển đổi số của các DN thực hiện một cách nhanh, hiệu quả và bền vững, cần:

 - Nâng cao nhận thức của lãnh đạo các DN về chuyển đổi số, họ cần nắm hiểu rõ về chuyển đổi số, kinh tế số... để có những quyết định, quyết sách cho doanh nghiệp mình phù hợp với năng lực và khả năng tài chính của doanh nghiệp;

 - Các DN cần chủ động tìm hiểu, lựa chọn các công nghệ phù hợp với lĩnh vực hoạt động của DN mình, từ đó lựa chọn đối tác cung cấp các giải pháp, các công nghệ để thực hiện quá số hóa;

- Chủ động đầu tư hệ thống máy móc, thiết bị, công nghệ phù hợp với tốc độ phát triển hạ tâng công nghệ thông tin quốc gia, tốc độ phát triển của internet, các ứng dụng của các công nghệ mới do cuộc cách mạng CN 4.0 mang lại;

- Chuẩn bị nguồn nhân lực có hiểu biết sâu về công nghệ thông tin, về chuyển đổi số phục vụ cho quá trình chuyển đổi số của doanh nghiệp mình;

 3.4. Đổi mới quản trị doanh nghiệp

Trong bối cảnh mới, chiến lược phát triển của DN trở thành vấn đề cốt tử. Những vấn đề trong đổi mới quản trị chiến lược của DN cần được chú trọng là: i) Hiệu quả về mặt kinh doanh, lợi nhuận thiết thực cho phát triển DN cả trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn; ii) Tinh thần thượng tôn pháp luật, về kinh tế , môi trường và xã hội; iii) Xây dựng và quy chuẩn đạo đức kinh doanh. Vì thế, các thành tố: mục tiêu, hướng đi, nguồn lực cần thiết, phương thức vận hành chiến lược theo từng giai đoạn phải tương thích với hoàn cảnh. Mô hình chiến lược được DN chọn nên theo dạng mở, điều chỉnh theo sát thực tế và những thay đổi của môi trường kinh doanh, chỉ nên xác lập tầm nhìn trong thời gian 3 năm.

Cần phải học cách thích nghi thông qua việc thay đổi phong cách lãnh đạo, quy trình làm việc nội bộ để dần chuẩn hóa tổ chức bộ máy theo chuẩn quốc tế.

Thu hẹp lĩnh vực hoạt động của DN Nhà nước hiện nay chính là tạo điều kiện để thị trường phân bố có hiệu quả các nguồn lực phát triển và tạo lập đầu tư kinh doanh bình đẳng.Theo đó:

(i) Chỉ duy trì hình thức công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu đối với các DN Nhà nước  đang trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh, hoặc cung ứng một số sản phẩm, dịch vụ công ích quan trọng, thiết yếu cho xã hội .

(ii) Thực hiện cổ phần hóa các DN Nhà nước còn lại.

(iii) Tiếp tục thoái vốn nhà nước xuống dưới mức chi phối hoặc không cần có vốn nhà nước tại các DN Nhà nước đã cổ phần hóa.

(iv) Nghiên cứu thí điểm mô hình chuyển đổi một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước từ mô hình công ty một thành viên sang công ty cổ phần 100% vốn nhà nước.

(v) Tách giá trị đất ra khỏi giá trị DN khi thực hiện cổ phần hóa và DN sau cổ phần hóa buộc phải thuê đất của Nhà nước cho mục đích sản xuất, kinh doanh, nếu được thực hiện chặt chẽ theo đúng quy định của pháp luật, là một giải pháp cần xem xét, nghiên cứu. 

Một trong những thách thức đối với việc xây dựng, kiểm soát và điều chỉnh chiến lược kinh doanh của các DN chính là khả năng nhận biết và đánh giá đúng tác động của hội nhập và biến động thị trường tới hoạt động kinh doanh của mỗi DN. Một chiến lược đúng thì các thành tố cấu thành: mục tiêu,hướng đi, cách thức đi, những nguồn lực cần thiết, phương thức vận hành chiến lược theo từng giai đoạn phải phù hợp. Mô hình chiến lược được DN chọn nên theo dạng mở, luôn điều chỉnh theo sát thực tế và những thay đổi của môi trường kinh doanh. Kết hợp chặt chẽ giữa vấn đề phác thảo và vận hành, điều chỉnh mô hình quản lý cho phù hợp với chiến lược. Bốn vấn đề trong đổi mới quản trị chiến lược của DN để hướng tới phát triển bền vững cần được chú trọng là: i) Hiệu quả về mặt kinh doanh, lợi nhuận thiết thực cho phát triển DN cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn; ii) Tinh thần thượng tôn pháp luật, không những về kinh tế mà điều chỉnh cả về môi trường và xã hội; iii) Xây dựng và quy chuẩn đạo đức kinh doanh và trách nhiệm với xã hội và cuối cùng  iv) Có những cam kết mạnh mẽ trong hoạt động từ thiện, chia sẻ những khó khăn, thiên tai trong cộng đồng và trên thế giới.

Khả năng bị kiện hay trả đũa sẽ gia tăng trong thời gian tới, vì vậy việc chuẩn bị và minh bạch hoá sổ sách, kế toán, theo dõi thông tin, phối hợp công bố thông tin, nhân lực am hiểu luật lệ, vận động hành lang, ngoại giao... sẽ là những vấn đề DN phải chuẩn bị. Vai trò của Việt kiều cần được phát huy cao độ để hàng Việt Nam có thể lách chân vào các thị trường ngách.

3.5.Đổi mới công tác thông tin thị trường và xúc tiến thương mại

Sớm hình thành cơ chế phối hợp thông tin không chỉ giữa các cơ quan quản lý,các hiệp hội ngành hàng,mà cần thiết lập kênh truyền tải thông tin tới DN, nông dân. Cơ chế thu thập, xử lý thông tin cũng cần đổi mới nhằm cung cấp kịp thời tình hình chính trị, thị trường, chính sách, biện pháp quản lý xuất nhập khẩu, rào cản.... Theo đó đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ DN trong việc tìm kiếm đối tác, thị trường mới, mặt hàng mới, thâm nhập các kênh phân phối, tham dự hội chợ, triển lãm...

3.6.Chuẩn bị nguồn nhân lực

Sự nghiệp cải cách theo hướng thị trường nhanh hay chậm phụ thuộc rất nhiều vào con người vừa là chủ thể, vừa là động lực của sản xuất. Sẽ không thể có kinh tế thị trường nếu không có những con người nắm vững và vận hành tốt các quy luật của kinh tế thị trường. Đây chính là bài học kinh nghiệm của các con rồng châu Á mà Việt Nam cần phải học tập. Như vậy việc chuẩn bị nguồn nhân lực cho nhu cầu trong cả hiện tại lẫn tương lai là công việc cực kỳ hệ trọng.

Để góp phần thúc đẩy sự tham gia của các DN Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu, cần phải có nguồn nhân lực đủ kỹ năng và năng lực cần thiết để sẵn sàng làm việc. Chú trọng đào tạo ứng dụng các kỹ năng nghiên cứu thị trường, marketing, kỹ năng đàm phán quốc tế, nghiệp vụ kỹ thuật ngoại thương, nâng cao trình độ ngoại ngữ, ứng dụng tin học, nâng cao tay nghề. Việc đào tạo cần theo hai hướng, trước mắt, đối với người lao động cần thuần thục về kỹ năng và chuyên môn hoá sâu. Mặt khác phải chú trọng đặc biệt tới đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, có khả năng ứng dụng và tích hợp khoa học công nghệ của nhân loại cho phát triển của Việt Nam về lâu dài

Sẽ không thể có kinh tế thị trường nếu không có những con người nắm vững và vận hành tốt các quy luật của kinh tế thị trường. Đây chính là bài học kinh nghiệm của các con rồng châu Á mà Việt Nam cần phải học tập. Như vậy việc chuẩn bị nguồn nhân lực cho nhu cầu trong cả hiện tại lẫn tương lai là công việc cực kỳ hệ trọng.

3.7.Rà soát các tiêu chuẩn và xây dựng hàng rào kỹ thuật

Thực thi các biện pháp quyết liệt nhằm nâng cao uy tín và chất lượng hàng xuất khẩu Việt Nam. Đổi mới nhanh công nghệ, thiết bị, áp dụng quy trình kỹ thuật nghiêm ngặt... để sản xuất sản phẩm xuất khẩu hợp chuẩn quốc tế. Rà soát lại 5.600 tiêu chuẩn hiện hành (hiện mới chỉ có khoảng 24% tiêu chuẩn bảo đảm hài hoà với tiêu chuẩn quy định của quốc tế và khu vực). Bên cạnh đó,cần chuẩn bị, xúc tiến  việc xây dựng hàng rào kỹ thuật cũng như các tiêu chuẩn mới nhằm bảo vệ thị trường nội địa.

3.8.Vấn đề xây dựng thương hiệu

Theo đánh giá của các chuyên gia, có tới 85 - 90 % lượng hàng nông sản của ta vào thị trường thế giới phải thông qua trung gian bằng các “thương hiệu” nước ngoài. Vì vậy giá thấp, bị o ép... sẽ vẫn là những câu chuyện thường ngày đối với hàng Việt Nam khi “vượt biên” xuất ngoại.

Thực tế cho thấy hầu hết DN vẫn chưa thương hiệu hoá không chỉ trên thị trường quốc tế mà cả ở thị trường trong nước do hai nguyên nhân chính: i) phần nhiều DN Việt Nam chưa tạo ra sản phẩm riêng biệt của mình để từ đó xác lập thương hiệu có tính thuyết phục và như một bảo đảm bền vững và ii) một số DN Việt Nam đã tạo ra được thương hiệu của mình nhưng lại chưa thực sự tìm được "pháp thuật" để làm cho thương hiệu của mình được lan toả một cách sâu rộng nhất. Trước mắt các hiệp hội ngành hàng của Việt Nam nên tổ chức giới thiệu sản phẩm của ngành cho người tiêu dùng ở một số địa phương tại các nước mà hàng Việt Nam xuất khẩu tới, nhằm tạo ra niềm tin cho người tiêu dùng đối với nhãn hiệu sản phẩm. Chiến lược phát triển thương hiệu cần thống nhất xác định trong thời gian dài và có sự đảm bảo nhất định về tài chính để có đủ khả năng ổn định phát huy thế cạnh tranh năng động cho một vài nhóm sản phẩm với phân khúc thị trường mục tiêu rõ ràng. Sự hiện diện một cách lâu dài trên thị trường của một sản phẩm cũng là một nguyên nhân vô cùng quan trọng làm nên thương hiệu.

Lương Thanh Hải

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT

TS. Nguyễn Thanh Bình 

Học viện Ngân hàng

BÀI VIẾT KHÁC