Cơ hội do RCEP mang lại
RCEP sẽ hướng tới tạo dựng thêm không gian kinh tế và lựa chọn cho doanh nghiệp, đồng thời được hưởng lợi từ việc cắt giảm chi phí giao dịch và môi trường kinh doanh thân thiện hơn nhờ hài hòa hóa các quy định hiện hành và áp dụng chung trong các FTA khác nhau của ASEAN. Không chỉ tiếp cận thị trường lớn, có quy mô GDP gấp đôi hiệp định CPTPP, các doanh nghiệp Việt Nam còn tiếp cận được nguồn nguyên liệu, phục vụ chuỗi sản xuất các mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu .
Với lợi thế về việc hài hòa quy tắc xuất xứ trong RCEP, cho phép các nước thành viên áp dụng nguyên tắc cộng gộp nguyên liệu có xuất xứ trong toàn khối, Việt Nam có thể sử dụng nguyên liệu có xuất xứ không chỉ từ các quốc gia ASEAN mà còn có thể sử dụng nguyên liệu có xuất xứ từ các nước đối tác ASEAN như Úc, New Zealand, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc...doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng nguồn nguyên liệu đa dạng để tăng cường khả năng xuất khẩu sang các nước đối tác trong khối. Năm 2018, ngân hàng Thế giới (WB) nếu quyết liệt cải cách, GDP và xuất khẩu của Việt Nam có thể tăng tương ứng 1,0% và 4,3% so với trường hợp không có RCEP. Nó gia tăng cơ hội phục hồi xuất khẩu - một ưu tiên quan trọng đối với Việt Nam và nhiều nước trong khu vực.
Các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ có nhiều cơ hội tham gia các chuỗi cung ứng mới do RCEP tạo ra nếu biết khai thác triệt để các lợi ích do Hiệp định mang lại.
Những cam kết về thương mại điện tử trong RCEP có thể sẽ tạo thêm cơ hội cho doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi số, giúp Việt Nam “mở rộng hơn” không gian thương mại trong dài hạn, đặc biệt là trong bối cảnh đại dịch Covid-19.
RCEP cũng sẽ làm sâu sắc thêm các xu hướng đầu tư, Việt Nam có cơ hội trở thành địa điểm thu hút vốn FDI (đặc biệt là viễn thông, công nghệ thông tin, dệt may, giày dép và điện tử ...).Tuy nhiên, sức hút FDI còn phụ thuộc vào chính sách thu hút của mỗi quốc gia, với từng lĩnh vực cụ thể.
Khi được 15 thành viên thực thi, RCEP sẽ tạo nên một thị trường với quy mô 2,2 tỷ người tiêu dùng, khoảng 30% dân số thế giới, với GDP 26,2 nghìn tỷ USD (30% GDP toàn cầu), trở thành khu vực thương mại tự do lớn nhất trên thế giới, mở ra một thị trường xuất khẩu ổn định dài hạn cho Việt Nam, để thực thi chiến lược xuất khẩu trong giai đoạn 2021 - 2025.
Đặc trưng của RCEP so với các FTA ASEAN+ và các FTA thế hệ mới gần đây
FTAs
|
Tỷ lệ xóa bỏ thuế quan cuối lộ trình (%)
|
FTAs
|
Tỷ lệ xóa bỏ thuế quan cuối lộ trình (%)
|
ATIGA
|
98
|
VJEPA
|
93
|
ACFTA
|
86
|
VCFTA
|
89
|
AKFTA
|
86
|
VKFTA
|
89.7
|
AANZFTA
|
90
|
CPTPP
|
97.8
|
AIFTA
|
74
|
EVFTA
|
98.3
|
AJCEP
|
90
|
RCEP
|
90.3 (đối với ASEAN)
89.6 (đối với Úc, NZ)
85.6 (đối với Trung Quốc)
86,6 (đối với Hàn Quốc và Nhật Bản)
|
Nguồn: Vụ Chính sách thương mại đa biên - Bộ Công Thương 2021
Cơ hội bao giờ cũng song hành cùng với khó khăn và thách thức. RCEP sẽ tác động cả xuất khẩu, nhập khẩu và thị trường nội địa.
Nhiều đối tác trong RCEP có cơ cấu sản phẩm tương tự Việt Nam, có năng lực cạnh tranh, trong khi chất lượng và hàm lượng giá trị gia tăng của hầu hết hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vẫn là vấn đề phải suy nghĩ. Một thách thức lớn đối với doanh nghiệp Việt Nam là RCEP có thể dẫn đến nguy cơ chuyển hướng thương mại (gia tăng cạnh tranh với Trung Quốc). Do đầu vào sản xuất của Việt Nam vẫn còn phụ thuộc khá lớn vào nhập khẩu, trong khi khả năng cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị khu vực còn hạn chế. Sức ép không chỉ diễn ra trên thị trường xuất khẩu mà ngay cả ở thị trường nội địa. Khi RCEP có hiệu lực, thị trường phải mở, hàng Việt phải cạnh tranh trực diện với các mặt hàng nhập khẩu từ RCEP, đặc biệt từ Trung Quốc.
Các cam kết của Việt Nam trong Hiệp định RCEP cơ bản được xây dựng trên cơ sở các cam kết của Việt Nam trong WTO và các FTA giữa ASEAN với các đối tác ngoại khối. Nhìn chung, RCEP sau khi có hiệu lực sẽ không tạo ra cú sốc quá lớn về giảm thuế quan nên có thể gia tăng nhập siêu nhưng cũng không quá phải lo ngại vì có thể bù đắp từ các thị trường chũng ta xuất siêu.
Tuy nhiên, những thách thức đặt ra cho công tác thu hút đầu tư nước ngoài khi RCEP đi vào thực thi cũng không hề nhỏ, ảnh hưởng đến mức độ tự chủ của nền kinh tế Việt Nam.
Nhìn chung,vấn đề lớn nhất của Việt Nam trong RCEP là làm thế nào để hiện thực hóa cơ hội, làm sao các doanh nghiệp có thể nắm bắt được thời cơ và tận dụng chúng một cách hiệu quả.
Giải pháp cho thời gian tới
RCEP không phải là một FTA mới. Trước đó, các doanh nghiệp Việt Nam đã có bài học với 14 FTA, gần đây nhất là EAEU, CPTPP, EVFTA và UKVFTA. Do đó, mỗi doanh nhân cần phải hiểu rõ các nội dung đã cam kết trong lĩnh vực của mình để vận dụng.
Để hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận và khai thác tối ưu những cơ hội mà RCEP mang lại, Bộ Công Thương và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã, đang và cần triển khai mạnh mẽ hơn kế hoạch tuyên truyền, phổ biến RCEP tới các Địa phương, Hiệp hội và các doanh nghiệp; xây dựng các chương trình hỗ trợ cụ thể cho từng ngành hàng, lĩnh vực dịch vụ mà Việt Nam có tiềm năng , thế mạnh. Các chương trình phát triển thị trường cho những mặt hàng xuất khẩu được cho là có lợi thế của Việt Nam vào thị trường RCEP phải được xem là những việc cần làm ngay.
Tổ chức phổ biến thông tin, các hội thảo, tập huấn hay xây dựng các kế hoạch hành động là cần thiết, phải song hành với nỗ lực gia tăng nhận thức, đồng thuận và tổ chức thực hiện của cộng đồng doanh nghiệp để hiện thực hóa RCEP vào “đời sống” của mỗi thực thể.
Điều cần lưu ý là cơ chế giải quyết tranh chấp quy định tại Chương 19 của RCEP. Dự báo các tranh chấp sẽ có xu hướng gia tăng, và nếu không thận trọng, các tranh chấp nhỏ sẽ bùng phát thành các tranh chấp lớn, phức tạp hơn. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần nhanh chóng đăng ký sở hữu trí tuệ nếu có sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa..
Thái Lan, Indonesia, Malaysia… đang gia tăng các biện pháp để đón đầu dòng vốn đầu tư đang dịch chuyển. Vì thế, muốn tăng tốc thu hút đầu tư từ RCEP, Việt Nam cần tăng tốc cải thiện môi trường đầu tư, xây dựng các chính sách hấp dẫn để đón dòng đầu tư mới.
Ở tầm vĩ mô, việc hài hòa bộ 3 chính sách công nghiệp, chính sách đầu tư, chính sách thương mại cũng như có chính sách, cơ chế ứng xử mềm dẻo, uyển chuyển với dòng vốn đầu tư nước ngoài (dựa vào tiêu chuẩn chứ không dựa vào tên đối tác) trên cơ sở cải cách thể chế lấy các FTA đã có CPTPP, EVFTA làm định hướng, tăng cường tính tự chủ của nền kinh tế, phát huy vai trò trung tâm của ASEAN, ủng hộ chủ nghĩa đa phương phải được xem là “kim chỉ nam”, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt quá trình hội nhập.
Năm 2007, gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), chúng ta tiến một bước dài trên con đường hội nhập. Năm 2021, với RCEP, kinh tế Việt Nam được ví như một con tàu tiếp tục vươn ra "biển lớn"!
Vũ Huy Hùng
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến thương mại - VIOIT