NGHIÊN CỨU

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Trang chủ >> Nghiên cứu

Giải pháp chuyển đổi ngành công nghiệp Việt Nam theo hướng công nghệ tiên tiến và có giá trị gia tăng cao

16/10/2023

Thực tế đã chỉ ra rằng, đại đa số các nước trên thế giới muốn tiến lên trở thành một nước công nghiệp, nước phát triển, đạt được mức thu nhập cao đều tiến hành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện CNH-HĐH đất nước trong thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế, tồn tại như: Tăng trưởng kinh tế không đạt mục tiêu chiến lược đề ra, tốc độ có xu hướng giảm dần; có nguy cơ tụt hậu và rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Nội lực của nền kinh tế còn yếu, năng suất lao động chậm được cải thiện, năng lực độc lập, tự chủ thấp. Công nghiệp phát triển thiếu bền vững. Các ngành dịch vụ quan trọng chiếm tỉ trọng nhỏ, mối liên kết với các ngành sản xuất còn yếu. 

Đối với Việt Nam, vấn đề CNH, HĐH đã được đặt ra từ nhiều nhiệm kỳ Đại hội Đảng. Trong thời gian qua, đã có khoảng 20 nghị quyết ban hành một số chủ trương, đường lối quan trọng có liên quan đến những khía cạnh riêng rẽ của CNH, HĐH.

Ngày 17/11/2022, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Nghị quyết được ban hành sẽ định hướng, là kim chỉ nam để cụ thể hóa các chủ trương của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030; là cơ sở, căn cứ chính trị quan trọng trong việc định hướng những tư duy mới, chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp mới tạo động lực thúc đẩy CNH-HĐH đất nước.

Chúng ta đang xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả là hết sức cần thiết để kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, bền vững, qua đó nâng cao sức mạnh nội lực, xử lý hiệu quả các vấn đề nội tại và thách thức nổi lên, đồng thời nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Nhân tài trong khoa học và công nghệ, trong quản trị là yếu tố then chốt, quan trọng trong xây dựng và phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Ngày nay, đặc biệt trong kỷ nguyên công nghệ số và trí tuệ nhân tạo, nhân tài trong khoa học và công nghệ có vai trò vô cùng quan trọng, là nhân tố quyết định để tăng cường, củng cố nền tảng và công nghệ quốc gia, đạt được sự phát triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững.

Bên cạnh đó, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có nhiều biến động nhanh, phức tạp, khó lường. Để chuyển đổi các ngành công nghiệp Việt Nam theo hướng công nghệ tiên tiến và có giá trị gia tăng cao hơn, một số giải pháp được đề suất có thể áp dụng từ phía Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam như:

1. Đẩy mạnh đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ

Năm 2022, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết lấy năm 2022 là Năm Quốc tế về khoa học cơ bản vì sự phát triển bền vững. Nghị quyết khuyến nghị các quốc gia thành viên nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của khoa học cơ bản đối với phát triển bền vững, phù hợp với các ưu tiên quốc gia, tăng cường tài trợ cho khoa học cơ bản và phổ biến khoa học mở. Trong đó, Việt Nam là một trong 10 quốc gia khởi xướng và đồng tác giả Sáng kiến Năm Quốc tế về khoa học cơ bản vì sự phát triển bền vững.

Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, nguyên nhân của tình trạng này là do các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, cho nên hạn chế về khả năng đầu tư cho ứng dụng, phát triển và đổi mới công nghệ. Thêm vào đó, do tác động của đại dịch Covid-19, doanh nghiệp tiếp tục gặp rất nhiều khó khăn, làm giảm thêm khả năng đầu tư cho ứng dụng, phát triển và đổi mới công nghệ. Trên thế giới, Chính phủ mới đủ điều kiện đầu tư kiên định và dài hạn cho nghiên cứu khoa học.

Việt Nam là quốc gia đạt tiến bộ và có tiềm năng lớn với giá trị ngày càng tăng về đổi mới sáng tạo, nhất là đối với thế hệ trẻ. Nhiều doanh nghiệp lớn của Việt Nam ngày càng quan tâm, tập trung đầu tư cho phát triển KHCN thông qua các quỹ, viện nghiên cứu, trường đại học, trung tâm và các loại hình liên kết... Chỉ số đổi mới sáng tạo thuộc nhóm 50 quốc gia dẫn đầu thế giới.

Tập trung cho nghiên cứu và phát triển công nghệ là con đường chiến lược giúp các quốc gia củng cố, nâng cao tiềm lực, trình độ và vị thế khoa học để dẫn dắt thế giới, không chỉ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, mà còn giải quyết các vấn đề của tương lai, xuyên quốc gia, liên quan tới an toàn và an ninh của con người, môi trường và Trái đất.

Như vậy, đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, Chính phủ và doanh nghiệp cần tăng cường đầu tư vào các chương trình nghiên cứu và phát triển công nghệ để tạo ra sản phẩm và dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Đồng thời, khuyến khích doanh nghiệp tư nhân và các tổ chức nghiên cứu đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ.

Chính phủ cần tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp có thể hợp tác với các trường đại học và viện nghiên cứu để chia sẻ kiến thức và công nghệ. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp tiếp cận các công nghệ tiên tiến và tăng cường năng lực nghiên cứu và phát triển.

2. Đổi mới công nghệ và quy trình sản xuất

Thấm nhuần tư tưởng của Bác, những năm qua, Đảng, Nhà nước ta luôn xác định phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ (KHCN) là quốc sách hàng đầu, là một động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Nền KHCN đã có những đóng góp quan trọng, nổi bật trong mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước trên tất cả các lĩnh vực. Yêu cầu phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo là một trong những đột phá chiến lược của đất nước trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay.

Thực tế cho thấy, thị trường khoa học và công nghệ có vai trò then chốt thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, chất lượng hàng hóa, dịch vụ và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như nền kinh tế.

Sự tiến bộ trong công nghệ sản xuất là quá trình liên tục cải tiến và phát triển các phương pháp, kỹ thuật và công nghệ sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của quy trình sản xuất. Các tiến bộ này bao gồm việc áp dụng công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo để tối ưu hoá quy trình sản xuất, sử dụng vật liệu mới và quá trình sản xuất tiên tiến hơn, sử dụng năng lượng và tài nguyên tiết kiệm hơn, đồng thời cũng tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao hơn và phù hợp hơn với nhu cầu của thị trường. Sự tiến bộ trong công nghệ sản xuất là điều rất cần thiết để giúp các doanh nghiệp cạnh tranh và phát triển.

Việt Nam là quốc gia đạt tiến bộ và có tiềm năng lớn với giá trị ngày càng tăng về đổi mới sáng tạo, nhất là đối với thế hệ trẻ. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao tăng từ 19% năm 2010 lên 50% năm 2020. Khoa học - công nghệ từng bước khẳng định vai trò động lực trong phát triển kinh tế - xã hội. Tiềm lực khoa học - công nghệ của đất nước được tăng cường. Hiệu quả hoạt động khoa học - công nghệ được nâng lên, tạo chuyển biến tích cực cho hoạt động đổi mới và khởi nghiệp sáng tạo. Trình độ khoa học - công nghệ sản xuất được nâng cao, doanh nghiệp có thể tham gia hiệu quả hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Việc ứng dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp sẽ nâng cao độ tin cậy làm việc của các thiết bị, lưu trữ dữ liệu phục vụ phân tích, đánh giá tình trạng của thiết bị, nâng cao hiệu quả và đáp ứng các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Từ đó, khai thác tối ưu nguồn tài nguyên, nhân lực hiện có của doanh nghiệp đảm bảo lợi ích cao nhất.

Như vậy, thúc đấy phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo không chỉ phụ thuộc vào mối liên kết của quốc gia mà phụ thuộc rất nhiều vào sự nghiên cứu, phát triển và đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp.

Doanh nghiệp công nghiệp cần đổi mới công nghệ và quy trình sản xuất để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm. Và để hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện tốt mục tiêu này, Chính phủ cần xác định rõ ràng thứ tự ưu tiên đối với từng ngành nghề cụ thể tương ứng với những giai đoạn phát triển để có định hướng phát triển khoa học và công nghệ trọng điểm. Khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao năng lực làm chủ công nghệ, cải tiến và nghiên cứu công nghệ mới.

Thực thi hiệu quả chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng cán bộ khoa học và công nghệ, khơi dậy sức sáng tạo, nâng cao trách nhiệm và tôn trọng sự khác biệt trong công tác nghiên cứu khoa học xã hội. Xây dựng, khiển khai các chương trình cụ thể để thu hút và phát huy có hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao.

Ngoài ra, Chính phủ còn có thể hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đầu tư vào nghiên cứu và đổi mới sáng tạo bằng cách cung cấp chính sách khuyến khích, hỗ trợ tài chính và đào tạo nhân lực chuyên môn.

3. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

Tại Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo theo quan điểm “nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”.

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao được xem là yếu tố quan trọng, nòng cốt bảo đảm cho nền kinh tế của Việt Nam phát triển, hội nhập sâu rộng, bền vững, đáp ứng yêu cầu CNH - HĐH đất nước và đáp ứng với điều kiện phát triển kinh tế tri thức thời đại mới. 

Trong một thế giới biến đổi nhanh, phức tạp và khó lường, để thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cần nuôi dưỡng, phát huy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần KHCN, đổi mới sáng tạo. Đổi mới, chuyển đổi các ngành công nghiệp Việt Nam theo hướng công nghệ tiên tiến và có giá trị gia tăng cao cần có đội ngũ các nhà khoa học giỏi làm việc trong các viện nghiên cứu, trường đại học; các kỹ sư, nhà công nghệ giỏi trong doanh nghiệp, các nhà quản lý khoa học giỏi để hoạch định các chính sách thúc đẩy phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo, phát huy tối ta các nguồn lực để phát triển.

Thời gian qua, nhiều văn bản của Nhà nước đã được ban hành nhằm huy động, khuyến khích nguồn vốn xã hội, các nguồn vốn nước ngoài đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ. Bên cạnh đó, để hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao trình độ và năng lực sản xuất, Nhà nước đã tăng cường nguồn lực cho đầu tư nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ trong doanh nghiệp.

Hiện nay, toàn cầu hóa diễn ra ngày càng sâu rộng, các liên kết kinh tế xuất hiện và ngày càng có nhiều ảnh hưởng, thúc đẩy sự phân công lao động sâu sắc và hình thành các chuỗi giá trị toàn cầu; cạnh tranh kinh tế diễn ra quyết liệt và mỗi quốc gia phải dành cho mình ưu thế trong cuộc cạnh tranh đó. Trong đó, nguồn lực con người, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ, năng động trong quá trình phát triển kinh tế; là nhân tố làm chuyển dịch lợi thế so sánh giữa các quốc gia.

Nguồn nhân lực chất lượng cao được coi là tài nguyên quý giá, lực lượng đầu tàu, đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững đất nước. Để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, có hiệu quả, đòi hỏi Chính phủ cần phải thường xuyên điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Chính phủ cần đầu tư vào các chương trình đào tạo chuyên sâu và tạo điều kiện thuận lợi để sinh viên và nhân viên có thể tiếp cận công nghệ mới nhất. Tăng cường xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân công nghiệp Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nhân lực có trình độ chuyên môn cao, kỹ năng quản lý, quản trị hiện đại, có đạo đức kinh doanh và tinh thần trách nhiệm.

4. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi

Môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi được xem là “bệ đỡ” giúp các doanh nghiệp hoạt động ổn định và phát triển, thu hút thêm nhiều nhà đầu tư mới gia nhập thị trường. Từ đó tạo thêm việc làm, đóng góp cho phát triển kinh tế-xã hội đất nước, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Từ năm 2014 tới nay, Chính phủ xác định cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia là một trong những trọng tâm chính sách kinh tế. Điều này thể hiện rõ qua việc Chính phủ liên tục ban hành Nghị quyết 19/NQ-CP (giai đoạn năm 2014-2018) và Nghị quyết 02/NQ-CP (giai đoạn 2019-2022) và mới đây nhất là Nghị quyết 01/NQ-CP 2023. Những nghị quyết này yêu cầu các bộ, ngành, chính quyền địa phương tiến hành nhiều nhiệm vụ, giải pháp nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp. Với sự quyết tâm đó, môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam trong những năm gần đây đã đạt những kết quả tích cực.

Tuy nhiên, môi trường đầu tư kinh doanh ở Việt Nam lại đang xuất hiện những “gam màu xám” khi theo thống kê từ Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, trong năm 2022, cả nước có hơn 148,5 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Song, lại có tới hơn 93,5 nghìn doanh nghiệp tạm dừng hoạt động hoặc rút lui khỏi thị trường.

Bên cạnh những yếu tố tác động khách quan thì vẫn còn rất nhiều tồn tại từ chính các điều kiện kinh doanh, thủ tục rườm rà, thậm chí là chất lượng thực thi của các văn bản pháp luật chưa thực sự tốt, còn chậm và chồng chéo... đang cản trở sự phát triển của doanh nghiệp, tạo ra những điểm nghẽn trong nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh.

Trong thời gian tới, Việt Nam tập trung thúc đẩy tăng trưởng xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo để tham gia sâu hơn vào cấu trúc đầu tư, trật tự thương mại và chuỗi cung ứng toàn cầu; tiếp tục mở cửa nền kinh tế, chuyển sang thu hút đầu tư nước ngoài có chất lượng và có trọng tâm, trọng điểm; hỗ trợ doanh nghiệp trong nước đẩy mạnh đầu tư khoa học công nghệ, năng lực sản xuất để đáp ứng và tham gia chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài; đẩy mạnh đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng chiến lược, các dự án quan trọng, cấp thiết, có tính lan tỏa lớn; chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao.

Đặc biệt, kinh nghiệm và nguồn lực của các tổ chức, nhà đầu tư nước ngoài, các tập đoàn đa quốc gia, các quỹ đầu tư lớn trên thế giới là cần thiết và quan trọng nhằm thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển trung tâm tài chính và hoạt động đầu tư vào các ngành, lĩnh vực đóng góp cho phát triển bền vững như kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế số, tài chính xanh.

Cải thiện môi trường kinh doanh để thu hút đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển công nghệ tiên tiến. Điều này bao gồm giảm thủ tục hành chính, cải thiện quy định và tạo ra một môi trường cạnh tranh công bằng.

5. Xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ

Việt Nam là quốc gia dẫn đầu châu Á về đầu tư cơ sở hạ tầng và đang đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở hạ tầng để thúc đẩy phát triển kinh tế, cải thiện đời sống, hỗ trợ chuyển đổi năng lượng và tăng cường khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu và thảm họa thiên tai, với mức chi khoảng 5,7% GDP.

Việt Nam cũng đang trong thời kỳ chuyển đổi hướng đến một nền kinh tế thu nhập cao và phát triển cơ sở hạ tầng đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được mục tiêu đó. Dù ở bất kỳ lĩnh vực nào, muốn áp dụng công nghệ mới đều cần có hạ tầng kỹ thuật.

Đẩy mạnh hợp tác công tư để huy động nguồn lực từ doanh nghiệp, người dân và xã hội theo nguyên tắc hài hòa lợi ích giữa người dân, doanh nghiệp và Nhà nước. Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại là chìa khóa quan trọng trong liên kết, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các thành phần kinh tế, qua đó đóng vai trò như đòn bẩy để tiếp tục thu hút thêm nguồn lực từ xã hội.

Cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ tư gắn liền với những thiết bị thông minh, cùng nhiều công nghệ tiên tiến như: Internet vạn vật (IoT - Internet of Things), Dữ liệu lớn (Big Data), Trí tuệ nhân tạo (AI - Artificial Intelligence), Tự động hóa quy trình, Điện toán đám mây (Cloud computing), Chuỗi khối (Blockchain),... Đây được coi là một trong những bước ngoặt lớn trong quá trình chuyển đổi số của ngành công nghiệp nói chung, doanh nghiệp nói riêng.

Các khu Công nghiệp Việt Nam đã và đang tích cực tạo môi trường đầu tư đồng bộ, hiện đại để thu hút những nhà đầu tư “lót ổ” cho những đại bàng trong lĩnh vực công nghệ cao. Ngoài vị trí địa lý, những chính sách thu hút lý tưởng, sức hấp dẫn của các khu này còn đến từ việc đầu tư hạ tầng đồng bộ hiện đại từ hệ thống điện, nước, dịch vụ viễn thông, cảnh quan môi trường. Giao thông thuận tiên, Nguồn điện hoạt động hiệu quả và ổn định, nguồn mạng viễn thông được đầu tư, hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp đảm bảo bảo đảm dịch vụ viễn thông và mạng internet luôn được ổn định.

Theo kế hoạch, Chính phủ sẽ thực hiện một loạt dự án hạ tầng xã hội quy mô lớn từ nguồn vốn ngân sách và các nguồn vốn khác. Trong chương trình hành động này, nhiệm vụ trọng tâm lớn cần đạt được: Hình thành cơ bản bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia; Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng dựa trên cơ sở nâng cao năng suất, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

6. Khuyến khích đổi mới giải pháp kinh doanh và đổi mới sáng tạo

Chuyển đổi số ngày nay không còn là một sự lựa chọn mà là điều tất yếu. Đó sẽ là một quá trình dài với nhiều thách thức đặt ra, buộc các Chính phủ, các doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thay đổi để hội nhập. Đứng trước cơ hội lớn này, mỗi cá nhân, tổ chức cần phải thoát ra khỏi vùng an toàn, tự tái tạo và cạnh tranh trong trạng thái bình thường mới được dẫn dắt bởi các công nghệ tiên tiến.

Sự hỗ trợ và hậu thuẫn ban đầu đóng vai trò rất lớn đến khả năng thành công của doanh nghiệp khởi nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, đổi mới sáng tạo cần có một hành lang pháp lý rõ ràng để định hướng phát triển.

Đổi mới sáng tạo đang được xem là một trong những công cụ đắc lực, tiềm năng nhất để doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Đây cũng đang là xu hướng tất yếu và là yếu tố mang tính sống còn giúp doanh nghiệp tăng trưởng nhanh, bền vững. Trong đó, động lực và phương thức thực hiện đổi mới sáng tạo hiệu quả thông qua khoa học-công nghệ nhằm đạt được lợi thế cạnh tranh, tạo ra thị trường mới, sử dụng hiệu quả nguồn lực, giảm lãng phí, nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Tuy nhiên hiện nay, do nguồn lực hạn chế, cơ chế, chính sách còn nhiều điểm nghẽn, đổi mới sáng tạo vừa là cơ hội nhưng cũng là thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp.

Hiện nay, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đang tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động khởi nghiệp sáng tạo với kỳ vọng tăng nhanh số lượng và quy mô doanh nghiệp. Đây là loại hình doanh nghiệp có khả năng tăng trưởng nhanh dựa vào khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ và mô hình kinh doanh mới, đem lại những kết quả thiết thực, duy trì sự năng động của nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Chính phủ cần đẩy mạnh khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào các hoạt động đổi mới kinh doanh và sáng tạo. Điều này có thể được thực hiện thông qua việc cung cấp hỗ trợ tài chính, chính sách khuyến khích và tạo ra một môi trường kinh doanh linh hoạt và sáng tạo.

Đồng thời, tiếp tục cải cách thể chế, xử lý một số rào cản chính sách, khuyến khích đầu tư mạo hiểm, chuyển giao công nghệ, nhất là thúc đẩy thương mại hóa ý tưởng, sản phẩm nghiên cứu có tiềm năng. Nhanh chóng hoàn thiện hành lang pháp lý và công tác quản lý nhà nước nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, các hệ thống đổi mới sáng tạo vùng, ngành, hệ sinh thái khởi nghiệp phù hợp điều kiện thực tế của Việt Nam.

Kết luận

Trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp Việt Nam đã có bước phát triển nhảy vọt, có đóng góp lớn vào thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao tiềm lực, vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót cần khắc phục cả trước mắt và trong chiến lược dài hạn. Để góp phần đưa Việt Nam trở thành một trong những trung tâm công nghiệp của khu vực và của thế giới, thuộc nhóm ASEAN-4 và nhóm 30 quốc gia có năng lực cạnh tranh công nghiệp trung bình cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ngành công nghiệp Việt Nam cần sớm chuyển đổi mô hình theo hướng công nghệ tiên tiến và có giá trị gia tăng cao.

Chính phủ cần có những cơ chế, chính sách đủ mạnh để hỗ trợ, khuyến khích các tổ chức, cá nhân, các viện nghiên cứu, trường đại học, các doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất kinh doanh; xác định doanh nghiệp là lực lượng quan trọng và là trung tâm trong phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ; tập trung nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp.

Như vậy, để chuyển đổi các ngành công nghiệp Việt Nam theo hướng công nghệ tiên tiến và có giá trị gia tăng cao, Chính phủ cần tăng cường đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ, thúc đẩy hợp tác giữa doanh nghiệp và các trường đại học, viện nghiên cứu; đổi mới công nghệ và quy trình sản xuất, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ và khuyến khích đổi mới kinh doanh và sáng tạo./.

Lê Anh Tú

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT

BÀI VIẾT KHÁC