Khu vực châu Á có ảnh hưởng lớn đối với xu hướng môi trường và năng lượng toàn cầu. Những quyết sách tại khu vực này thậm chí sẽ có tác dụng định hình mạnh mẽ hơn đối với những diễn biến trong tương lai. Châu Á chiếm gần một nửa dân số thế giới, do vậy các quyết định tầm quốc gia tại đây liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ, bảo toàn năng lượng và giảm phát thái khí nhà kính sẽ tác động đến xu hướng khai thác cạn kiệt các tài nguyên năng lượng, phát thải khí nhà kính toàn cầu và các điều kiện môi trường. Hiện nay, Trung Quốc và Ấn Độ đã vượt qua Mỹ trong việc tác động đến giá dầu trong những năm gần đây. Về nguồn cung dầu mỏ thì Mỹ, OPEC và Nga là những cái tên cần quan tâm. Còn đối với nguồn tiêu thụ dầu mỏ thì Trung Quốc và Ấn Độ là hai “đối tượng” hàng đầu. Bất cứ điều gì xảy ra với nền kinh tế Ấn Độ và Trung Quốc đều ảnh hưởng lập tức đến giá dầu mỏ của thế giới.
Những lựa chọn năng lượng trong khu vực cũng có nhiều tác động đến xã hội, sức khỏe, ảnh hưởng tới tăng trưởng và suy giảm việc làm trong các lĩnh vực khác nhau, chất lượng việc làm và chất lượng môi trường tự nhiên cho các thế hệ tương lai. Các hệ thống năng lượng đóng vai trò cốt lõi đối với nền kinh tế hiện đại. Cấu trúc hệ thống năng lượng có khả năng thúc đẩy hoặc kìm hãm công bằng xã hội và tiềm năng kinh tế của một quốc gia. Một số chính sách chuyển dịch năng lượng tại một số quốc gia sau sẽ làm nổi rõ tầm ảnh hưởng của an ninh năng lượng tới những biến chuyển kinh tế của quốc gia đó trong tương lai.
1. Trung Quốc
Trong vòng 40 năm qua, Trung Quốc đã chuyển từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp sang nền kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất hàng hóa. Tốc độ tăng trưởng ấn tượng của quốc gia này gắn liền với kế hoạch dài hạn của chính phủ và nỗ lực của toàn dân. Từ một nền kinh tế đang phát triển, Trung Quốc được đưa vào nhóm nền kinh tế đang chuyển tiếp và trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh này gắn với nhu cầu điện năng tại Trung Quốc tăng gấp nhiều lần trong vài thập kỷ qua. Cùng với mục tiêu tăng trưởng cao là mô hình “đầu tư nhiều, tiêu hao lớn” nguồn năng lượng. Trung Quốc đã tiêu hao tài nguyên năng lượng nhiều lần hơn so với các nước phát triển trong quá trình công nghiệp hóa. Trong quá trình công nghiệp hóa, bình quân mỗi năm Mỹ chỉ tăng thêm 1 triệu tấn vật liệu thép, trong khi Trung Quốc mỗi năm tăng thêm luợng tiêu hao vật liệu thép là 30-40 triệu tấn.
Trung Quốc là quốc gia có lượng dự trữ than đá lớn, đáp ứng hơn 70% nhu cầu tiêu thụ năng lượng trong nước. Trong số 1.390 triệu tấn nhiên liệu sản xuất tại Trung Quốc năm 2002 thì than đá chiếm 71%. Hiện lượng dự trữ than đá của Trung Quốc đứng thứ 7 thế giới, trong khi sản lượng tiêu dùng than đá của quốc gia này lại đứng đầu thế giới. Trong suốt nhiều năm, nước này đã liên tục xây mới một loạt các nhà máy điện than. Tình hình ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn khi chính quyền trung ương chuyển giao quyền hạn trong lĩnh vực sản xuất nhiệt điện cho tỉnh. Hiện nay, công suất phát điện tại Trung Quốc đang khá dư thừa và nhiều nhà máy hiện đang ngừng hoạt động. Mặc dù than chiếm tỷ lệ nhiều nhất trong các nguồn nhiên liệu dự trữ năng lượng, tuy nhiên tại nhiều vùng ở Trung Quốc, việc sản xuất than đá với công nghệ cũ đã gây ô nhiễm môi trường, buộc Chính phủ Trung Quốc phải đặt mục tiêu giảm bớt tỷ lệ sử dụng than đá và tăng cường các nguồn năng lượng khác như dầu thô, khí thiên nhiên. Do quan ngại ngày càng tăng về tình trạng ô nhiễm và biến đổi khí hậu cũng như tốn chi phí xây dựng các nhà máy để rồi sau đó bị bỏ không, chính quyền trung ương đã can thiệp và yêu cầu các chính quyền cấp tỉnh ngừng xây dựng nhiều nhà máy điện than mà đã được quy hoạch.
Mặc dù còn nhiều lo ngoại và chỉ trích cho rằng, các công ty Trung Quốc đang chuyển trọng tâm xây dựng các nhà máy điện than sang nước ngoài, nhưng dường như ngành điện than đã chạm ngưỡng tại quốc gia này - đây là tin tốt đối với phát triển môi trường. Sự chuyển dịch này tại Trung Quốc đã khiến Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) thay đổi dự báo về nhu cầu tiêu thụ than toàn cầu. Việc tẩy chay than đá sẽ có nhiều tác động tích cực. Điều này không những sẽ cắt giảm phát thải CO2 mà còn cả lượng phát thải SO2 cũng như các hạt vật chất mịn, giảm tác động đối với sức khỏe con người. Ngành khai thác than đã ghi nhận nhiều tai nạn và thảm họa lao động với hàng nghìn người thiệt mạng mỗi năm trong các vụ sập hầm và các sự cố khác.
Về dầu khí, Trung Quốc là quốc gia tiêu thụ lớn dầu mỏ trên thế giới. Từ năm những năm 1993 Trung Quốc đã trở thành nước nhập khẩu dầu mỏ, lượng tiêu thụ dầu đã vượt mức 275 triệu tấn (2003). Tính trung bình, mỗi ngày Trung Quốc tiêu thụ 5.982.000 thùng dầu, chiếm 7,6% lượng tiêu thụ dầu mỏ của thế giới (chỉ sau Mỹ). Mỗi năm Trung Quốc vẫn phụ thuộc vào lượng dầu nhập khẩu để đáp ứng 72% tổng lượng tiêu thụ nội địa. Từ năm 2008, trở thành nước nhập khẩu dầu đứng thứ ba thế giới. Ràng buộc này khiến chính phủ Trung Quốc đẩy mạnh sản xuất dầu trong nước thông qua Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc (PetroChina), Tập đoàn Dầu khí & Hóa chất Trung Quốc (Sinopec) và Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc (Cnooc), nhóm 3 công ty dầu khí hàng đầu nước này. Xét về tổng thể, Trung Quốc tiêu thụ 43% lượng than đá, 19% thủy điện và 10% dầu mỏ, 27% thép, 25% nhôm của thế giới (2008).
Theo báo cáo Triển vọng Năng lượng Thế giới, Trung Quốc sẽ trở thành quốc gia tiêu thụ năng lượng lớn nhất thế giới năm 2030. Nhu cầu năng lượng của quốc gia này đã tăng nhanh, chiếm tới 51% tổng gia tăng nhu cầu của thế giới. Trong cơ cấu tiêu thụ năng lượng của Trung Quốc, dầu mỏ có tỉ trọng ngày càng tăng, vượt Nhật Bản để trở thành quốc gia tiêu thụ dầu mỏ lớn thứ 2 trên thế giới (trong khi chỉ chiếm 2% trữ lượng dầu mỏ thế giới), với mức tiêu thụ dự báo khoảng 13-14 triệu thùng/ngày năm 2025 và lượng nhập khẩu chiếm 70% tổng nhu cầu. Luợng dự trữ than đá của Trung Quốc đứng thứ 7 thế giới, trong khi sản lượng tiêu dùng than đá lại đứng đầu thế giới.
Thời gian qua, Trung Quốc cũng đã đầu tư nhiều cho việc xây dựng các đập nước và có lượng đập thủy điện lớn nhất thế giới. Đây cũng là nơi có một trong những đập thủy điện quy mô lớn nhất thế giới – Đập Tam Hiệp. Dự án khổng lồ này của Trung Quốc khiến cả thể giới chú ý do đây là một công trình kỳ vĩ và phải trả giá khá đắt về môi trường và xã hội (hơn 1 triệu người đã phải di dời để phục vụ công tác xây dựng đập, các khu vực rộng lớn có ý nghĩa quan trọng về mặt sinh học và lịch sử đã bị nhấn chìm).
Gần đây Chính phủ Trung Quốc đã bắt đầu định hướng cơ cấu điện năng theo hướng mới. Tính đến nay, Trung Quốc là nước có những kế hoạch phát triển năng lượng hạt nhân quy mô lớn nhất thế giới với 37 lò phản ứng đang hoạt động, 20 lò phản ứng đang được xây dựng và nhiều lò phản ứng đang nằm trong kế hoạch. Tuy nhiên, năng lượng hạt nhân chỉ chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ trong cơ cấu điện năng của Trung Quốc và người ta không thấy hào hứng mấy với công nghệ này. Việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân tại Trung Quốc đang vấp phải sự phản đối của người dân địa phương.
Không nghi ngờ gì, Trung Quốc đang là nhân tố thúc đẩy sự phát triển năng lượng tái tạo trên toàn cầu. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có thực trạng ô nhiễm môi trường ở Trung Quốc, trong khi nhu cầu năng lượng ngày một tăng cao, khả năng phát triển khá nhanh của năng lượng tái tạo và các cơ hội kinh tế liên quan đến các ngành năng lượng tái tạo. Trung Quốc hiện đang đi đầu thế giới trong việc sản xuất pin năng lượng mặt trời và tuabin gió, cũng như trong công suất lắp đặt tổng thể các loại năng lượng này.
- Chính sách bảo đảm an ninh năng lượng của Trung Quốc
Kể từ Đại hội 18 Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đề ra mục tiêu tăng GDP bình quân đầu người lên gấp đôi 10.000 USD (2020), so với mức 5.000 USD (2010). Để đạt được mục tiêu, Trung Quốc đưa ra những định hướng chính sách lớn. Trong đó, chính sách năng lượng mới được coi như là một trong những ưu tiên quan trọng để bảo đảm sự phát triển kinh tế hiệu quả và bền vững.
+ Thứ nhất: Chính sách tiết kiệm năng lượng. Tiết kiệm năng lượng là quốc sách cho chiến lược năng lượng, bởi Trung Quốc là một trong những quốc gia sử dụng năng lượng kém hiệu quả nhất.
Chính phủ Trung Quốc đặc biệt quan tâm đến tầm quan trọng của vấn đề tiết kiệm năng lượng. Kể từ khi cải cách, mở cửa, Trung Quốc luôn quan tâm và đặt chiến lược tiết kiệm năng lượng là trọng tâm của chiến lược phát triển bền vững.
Từ năm 1997, Trung Quốc đã thông qua Luật tiết kiệm năng lượng. Bước vào thế kỷ XXI, Trung Quốc xây dựng hàng loạt các chính sách liên quan đến tiết kiệm năng lượng như: Kế hoạch trung và dài hạn về phát triển năng lượng giai đoạn (2004- 2020), chỉ rõ mục tiêu cắt giảm cácbon bắt buộc là 20% trong Quy hoạch phát triển 5 năm lần thứ XI (2006 - 2010). Đến năm 2007, Luật tiết kiệm năng lượng được sửa đổi, bổ sung và nhấn mạnh hơn vấn đề tiết kiệm năng lượng, bổ sung thêm lĩnh vực xây dựng, giao thông và thể chế công cộng trong tiết kiệm năng lượng. Với việc thông qua Luật tiết kiệm năng lượng, Ủy ban tiêu chuẩn quốc gia Trung Quốc đã xây dựng 46 tiêu chuẩn tương đương về tiết kiệm năng lượng.
Đóng cửa các cơ sở lạc hậu. Trung Quốc đã ban hành Thông báo Giám sát việc đóng cửa các nhà máy nhiệt điện nhỏ và Thông báo về điều chỉnh nhanh cấu trúc các ngành công nghiệp sản xuất thừa năm 2006. Trung Quốc đã đóng cửa một số nhà máy nhiệt điện nhỏ và sản xuất thép, xi măng trong những năm 2008, 2009 với cơ sở sản xuất lạc hậu, hoàn thành chỉ tiêu đề ra của Quy hoạch 5 năm lần thứ X. Đến cuối năm 2009, Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh và đề ra các thông báo, quy định về giảm các cơ sở sản xuất lạc hậu, sản xuất dư thừa để tiết kiệm năng lượng.
Để thúc đẩy, phổ biến các công nghệ và thiết bị tiết kiệm năng lượng hiệu quả cao, Ủy ban cải cách và phát triển Trung Quốc đã đưa ra Danh mục các kỹ thuật tiết kiệm năng lượng trụ cột quốc gia, bao gồm 85 ngành kỹ thuật cao, trong đó liên quan đến 11 ngành công nghiệp than, điện, thép, kim loại màu, dầu khí, hóa dầu, hóa chất, các khu nhà cao tầng, máy móc, dệt may, giao thông và xây dựng. Ủy ban cải cách phối hợp với các ban, ngành thực hiện Chương trình 1.000 doanh nghiệp có hành động tiết kiệm năng lượng.
Từ năm 2009, Trung Quốc đã chi ra 180 tỷ NDT để tái cấu trúc kỹ thuật tiết kiệm năng lượng, bao gồm tái cấu trúc công nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong hệ thống nhà ở đô thị, nông thôn và phát triển các năng lượng tái sinh. Năm 2008, trong khoản đầu tư kích cầu 4.000 tỷ NDT ứng phó khủng hoảng tài chính toàn cầu, trong đó có 210 tỷ NDT được đầu tư cho chiến lược tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường. Trung Quốc đã ban hành hàng loạt văn bản, chính sách hỗ trợ tài chính cho hoạt động tiết kiệm năng lượng, cung cấp hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm hiệu quả cao, đồng thời cũng có các chính sách trợ giá thúc đẩy sản xuất các nhiên liệu tái sinh. Bên cạnh đó là chính sách cắt giảm thuế cho các dự án thân thiện với môi trường.
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ XII (2011 - 2015) một lần nữa tiếp tục nhấn mạnh mục tiêu tiết kiệm năng lượng, giảm khí thải, năm 2015 giảm 16% tiêu thụ năng lượng trên tổng giá trị đơn vị sản xuất so với năm 2010. Nội dung chính của kế hoạch gồm:
Một là: Nhấn mạnh mục tiêu trách nhiệm khống chế ngành nghề có tiêu thụ năng lượng cao, xả thải cao.
Hai là: Mở rộng sản phẩm tiết kiệm năng lượng cao. Mục tiêu là tiết kiệm 670 triệu tấn muội than tiêu chuẩn, tiết kiệm 330 tỷ tấn than tiêu chuẩn. Trung Quốc đã dùng vốn của trung ương ủng hộ xây dựng công trình trọng điểm tiết kiệm năng lượng giảm xả thải, tiết kiệm 22,1 triệu tấn than sạch, tăng khả năng xử lý nước ô nhiễm khoảng 9,8 triệu tấn/ngày, xử lý rác 11 vạn tấn/ngày, tăng lượng ống nước thải lên 2,1 vạn km.
Ba là: Xác định các lĩnh vực trọng điểm tiết kiệm năng lượng, giảm xả thải. Triển khai thí điểm thành phố có hệ thống giao thông vận tải ít cácbon, tiến hành xây dựng các công trình mạng lưới hệ thống thu phí tự động, thành lập cơ quan cải tạo tiết kiệm năng lượng, tiết kiệm nước, khuyến khích phát triển ô tô tiết kiệm xăng, lựa chọn 8 thành phố để triển khai thí điểm chính sách tổng hợp tài chính tiết kiệm năng lượng giảm xả thải.
Bốn là: Thị trường hóa cơ chế hỗ trợ tiết kiệm năng lượng giảm xả thải, các ngành liên quan ở Trung Quốc đã sửa đổi các biện pháp quản lý quỹ tài chính cải tạo kỹ thuật tiết kiệm năng lượng, nâng cao tiêu chuẩn của quỹ; thúc đẩy cải cách thuế tài nguyên, triển khai thí điểm cải cách thuế.
Năm là: Phát triển kinh tế tuần hoàn (circular economy) nâng cao trình độ sản xuất tài nguyên. Công bố Hướng dẫn xây dựng Quy hoạch phát triển kinh tế tuần hoàn, chỉ đạo việc lập quy hoạch phát triển kinh tế tuần hoàn. Đẩy mạnh việc thí điểm làm mẫu kinh tế tuần hoàn, công bố 60 đồ án điển hình về kinh tế tuần hoàn, mở rộng các chủng loại và phạm vi thí điểm việc tái chế tạo.
Sáu là: Hoàn thiện tiêu chí tăng cường giám sát. Triển khai xác minh ô nhiễm giảm xả thải, thực thi giám sát việc xử lý nước bị ô nhiễm… Ủy ban cải cách phát triển Trung Quốc tổ chức triển khai các hoạt động toàn dân tiết kiệm năng lượng, giảm xả thải gây ô nhiễm môi trường.
+ Thứ hai: Tăng cường các kho dự trữ năng lượng trong nước.
Trung Quốc thông qua kế hoạch dự trữ dầu khí năm 1993. Tổng chi phí cho kế hoạch này lên đến 100 tỷ NDT, thời gian thực hiện được chia làm nhiều giai đoạn, bảo đảm có lượng dầu khí đủ khả năng đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước từ 10 - 30 ngày. Đến năm 2020 có mức dự trữ với thời gian 90 ngày.
Do sản lượng của giếng dầu Đại Khánh đang cạn dần, Tân Cương dần trở thành căn cứ dầu mỏ lớn thứ ba của Trung Quốc (chiếm 30% - 40% tổng trữ lượng dầu mỏ và khí tự nhiên của quốc gia này). Tháng 5-2007, Tập đoàn Khí tự nhiên và Dầu mỏ Trung Quốc đã phát hiện giếng dầu Nam Bảo với trữ lượng hơn 1 tỷ tấn ở Thành phố Đường Sơn thuộc tỉnh Hà Bắc - đây là phát hiện lớn nhất trong việc thăm dò dầu mỏ ở Trung Quốc trong 40 năm. Dự tính sản lượng hàng năm của mỏ dầu sẽ vượt 10 triệu tấn.
Trung Quốc thực hiện quan điểm phát triển khoa học - công nghệ, tăng cường bảo vệ môi trường; thúc đẩy khai thác và sử dụng năng lượng tái sinh, phi hóa thạch, năng lượng hạt nhân; động viên người dân tiết kiệm năng lượng, sử dụng năng lượng hợp lý, hiệu quả.
+ Thứ ba: Chú trọng phát triển các nguồn năng lượng mới.
Trong kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ XII (2011 - 2015), Chính phủ Trung Quốc đã đề cao: Chiến lược năng lượng của Trung Quốc trong tương lai cần chuyển hướng đầu tư mạnh mẽ sang các dạng năng lượng tái tạo và năng lượng sạch (gồm thủy điện, năng lượng gió, điện mặt trời, năng lượng sinh học). Chiến lược được thực hiện và chia thành 3 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất (2005 - 2010): Năng lượng tái tạo đóng vai trò phụ trợ; Giai đoạn thứ hai (2010 - 2020): là giai đoạn nguồn năng lượng thay thế - nghĩa là dần dần thay thế cho các loại năng lượng khác; Giai đoạn thứ ba (2020 - 2030): Năng lượng tái tạo (năng lượng gió, năng lượng mặt trời…) sẽ vươn lên hàng đầu. Năm 2050, năng lượng tái tạo sẽ trở thành nguồn cung cấp chính, chiếm 35-40% tổng năng lượng của Trung Quốc.
Trung Quốc là nhà đầu tư lớn vào năng lượng tái tạo trong nước với mức đầu tư 102 tỷ USD trong năm 2015, cao gấp đôi số vốn đầu tư trong nước của Mỹ, gấp 5 lần của Anh và khoảng 36% toàn thế giới. Tháng 1 năm 2017, quốc gia này tiếp tục đầu tư 2.500 tỷ NDT (khoảng 367 tỉ USD) vào các nguồn năng lượng tái tạo đến năm 2020. Trung Quốc hiện đã trở thành nhà sản xuất, xuất khẩu công nghệ năng lượng tái tạo lớn nhất, cung cấp hơn 2/3 số tấm pin mặt trời và gần một nửa số tua bin gió của thế giới.
Hình 1: Khu lọc hóa dầu và nhà máy năng lượng mặt trời của Trung Quốc

Trong Chính sách năng lượng xanh, Trung Quốc đặc biệt chú trọng tới phát triển các nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo ít cacbon hơn. Hiện nay, Trung Quốc được đánh là nhà sản xuất năng lượng gió lớn thứ ba trên thế giới, sau Hoa Kỳ và Đức. Đồng thời cũng là quốc gia có nguồn năng lượng gió đặc biệt dồi dào và phong phú. Nguồn tài nguyên gió ở phía Đông Bắc, phía Bắc, phía Tây Bắc, các vùng ven biển, các hải đảo có tiềm năng rất lớn. Năm 2009, tổng công suất lắp đặt của các nhà máy sản xuất năng lượng gió tại Trung Quốc đạt tới 20 GW. Bên cạnh khai thác gió trên đất liền, Trung Quốc cũng đã tập trung hỗ trợ triển khai các dự án phát triển năng lượng gió ngoài khơi. Bộ Khoa học và Công nghệ Trung Quốc đã hỗ trợ kinh phí thông qua những quỹ đặc biệt cho việc phát triển và nghiên cứu công nghệ sản xuất năng lượng gió ngoài khơi. Đến cuối năm 2009, các nhà máy sản xuất điện từ năng lượng gió ở Trung Quốc đã lắp đặt các tua bin gió được sản xuất bởi 49 doanh nghiệp (trong đó có 24 doanh nghiệp nước ngoài với công suất 6,34 GW; 25 doanh nghiệp trong nước với công suất 19,46 GW). Đến năm 2020, ngành công nghiệp năng lượng gió của Trung Quốc sẽ có công suất lắp đặt là 200 GW, tương đương với 440.000 GWh điện và sẽ giúp giảm 440 triệu tấn CO2, giảm lượng tiêu thụ 200 triệu tấn than.
Nhiên liệu sinh học đã được Trung Quốc nghiên cứu và phát triển từ khoảng những năm 1990. Đến năm 2001, Trung Quốc đã đưa vào thí nghiệm xăng pha cồn. Năm 2003, xăng E10 (pha 10% ethanol và 90% xăng) đã chính thức được sử dụng ở 5 thành phố lớn và sắp tới sẽ mở rộng thêm tại 9 tỉnh đông dân khác. Theo dự kiến, ethanol nhiên liệu sẽ đạt khoảng 10 tỷ lít vào năm 2020 (năm 2005 là 1,2 tỷ lít). Là nước sản xuất ethanol lớn thứ ba trên thế giới, sau Mỹ và Brasil, Trung Quốc đã xây dựng nhiều nhà máy chế biến nhiên liệu sinh học trên cả nước, đặc biệt là khu vực Quảng Tây, nơi chiếm 70% sản lượng sắn của cả nước, đạt 7 triệu tấn/năm. Trong đó lớn nhất là nhà máy của China Oil and Food Corporation (COFCO) tiêu thụ 1,5 triệu tấn sắn/năm.
Ngoài ra, hai công ty là China’s Beihai Gofar Marie Biological Industry và China-based Hainan Yedao Group cũng xây dựng 2 nhà máy với công suất 100.000 tấn sắn/năm/1 nhà máy tại đây. Để cung cấp nhiên liệu cho các nhà máy này, Trung Quốc đã tăng cường nhập khẩu nông sản như sắn và mở rộng các vùng nguyên liệu mía, ngô… nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất nhiên liệu sinh học cồn ethanol và dầu diesel sinh học trong nước. Đồng thời, Chính phủ Trung Quốc cũng liên kết với các nước Lào, Nigieria, Philippines để trồng sắn tại các nước này, như kế hoạch trồng 4.498 ha tại Lào, trồng 4.500 ha tại Philippin nhằm tăng nguồn cung cho nhu cầu của Trung Quốc. Nhu cầu đối với mặt hàng sắn của Trung Quốc là rất lớn, dự kiến mỗi năm phải nhập khẩu từ 6-6,5 triệu tấn sắn/năm mới đáp ứng được đủ nhu cầu cho sản xuất nhiên liệu sinh học.
Các nhà máy điện nguyên tử của Trung Quốc có khả năng sản xuất được hơn 10 triệu kW và được nâng lên 40 triệu kW vào năm 2015. Đó là những con số trong bản Quy hoạch 5 năm lần thứ XII mà Trung Quốc đã nêu ra. Tuy điện hạt nhân là một nguồn năng lượng tiềm năng và mới mẻ, song sau thảm họa nổ nhà máy điện hạt nhân tại Nhật Bản, Trung Quốc đang cân nhắc lại về việc phát triển nguồn năng lượng này vì vấn đề an ninh năng lượng hạt nhân.
Các lĩnh vực sản xuất năng lượng nguyên tử, gió, mặt trời… được hưởng nhiều chính sách thuận lợi. Theo số liệu từ Cục Quản lý năng lượng quốc gia, 62% lượng đầu tư trong năm 2010 là cho ngành công nghiệp năng lượng sạch. Trung Quốc vẫn tiếp tục củng cố vị thế để trở thành cường quốc năng lượng sạch của thế giới. Kỷ lục vốn đầu tư lên tới 54,4 tỷ USD của nước này trong năm 2010 tương ứng với mức gia tăng 39% so với năm 2009.
+ Thứ tư: Đa dạng hóa các nguồn năng lượng nhập khẩu, đặc biệt dầu mỏ.
Thiếu hụt dầu mỏ và khí đốt sẽ trở thành những thiếu hụt nghiêm trọng nhất ảnh hưởng đến an ninh năng lượng của Trung Quốc vào năm 2030. Trong bối cảnh đó đã hình thành chiến lược năng lượng mới của Trung Quốc hướng tới tăng cường hợp tác với các nước nhằm đáp ứng nguồn an ninh năng lượng trong nước. Chiến lược hợp tác quan trọng được khuyến khích là “hướng ra ngoài”. Trung Quốc khuyến khích các công ty năng lượng trong nước đầu tư ra nước ngoài nhằm dành quyền tiếp cận ưu thế với các nguồn tài nguyên thiên nhiên, với chiến lược năng lượng mới là chính sách “ngoại giao năng lượng”.
Trung Quốc triển khai quyết liệt chiến lược “hướng ra ngoài” nhằm thâu tóm dầu mỏ và các nguồn năng lượng khác. Đẩy mạnh hoạt động thâu tóm, sáp nhập các công ty dầu mỏ nước ngoài, thành lập các liên minh, tiến hành hàng loạt thương vụ mua cổ phần các công ty dầu khí lớn xuyên quốc gia với tổng vốn huy động lên đến hàng chục tỉ USD. Phương châm của Trung Quốc là: “Đến bất cứ nơi nào có tài nguyên, với bất cứ giá nào, trong bất cứ điều kiện nào”.
Đối với các hợp đồng cung cấp năng lượng lớn, Trung Quốc đã áp dụng một số biện pháp chính sau:
Một là: Trung Quốc khuyến khích các công ty dầu mỏ lớn đầu tư ra nước ngoài. Từ giữa thập niên 1990, các công ty như: Tập đoàn Hóa chất và Dầu khí Trung Quốc (Sinopec), Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc (CNPC-China National Petroleum Corporation), và Tổng công ty Dầu khí ngoài khơi Trung Quốc (CNOOC-China National Offshore Oil Corporation) đã tích cực đầu tư ra nước ngoài. Các công ty này đã mua các mỏ dầu, khí gas ở Sudan, Angola, Peru, Canada, Kazakhstan, và nhiều nước khác.
Hai là: Trung Quốc linh hoạt ký các hợp đồng mua bán, hoặc cung cấp năng lượng với các tập đoàn năng lượng nước ngoài, thay vì mua lại hoàn toàn các tập đoàn này nhằm tránh sự phản đối của các nước phương Tây.
Ba là: Trung Quốc đưa ra những "lời chào" cao hơn giá thực đến 20% để tiếp cận được công nghệ cao trong thăm dò, khai thác dầu khí. Thông qua tham gia những dự án năng lượng lớn, Trung Quốc muốn tiếp cận với công nghệ mới. Việc Tập đoàn CNOOC có tới 7 giàn khoan với những công nghệ khoan sâu tiên tiến nhất hiện nay cũng là nhờ vào chính sách này.
Bốn là: Các tập đoàn nhà nước, hoặc ngân hàng quốc doanh Trung Quốc hỗ trợ các tập đoàn năng lượng thông qua trực tiếp thanh toán các hợp đồng năng lượng. Tháng 5.2010, Ngân hàng Phát triển Trung Quốc cho Tập đoạn dầu khí Brazil Petrobas vay khoản tín dụng trị giá khoảng 10 tỷ USD với điều kiện phải cung cấp dầu thô cho Sinopec trong 10 năm. Tập đoàn thương mại Trung Quốc Sinochem đã nhận 40% cổ phần (khoảng 3 tỷ USD) từ Tập đoàn Staoil của Na Uy để tham gia khai thác giếng dầu Peregrino ở Bra-xin.
Song song với việc duy trì nhập khẩu dầu qua eo Malacca, chiến lược mới của chính phủ Trung Quốc là thiết lập các kênh nhập khẩu dầu trên đất liền. Đối với Trung Quốc, Eo Malacca có tầm quan trọng đặc biệt bởi lẽ 50 - 70% dầu mỏ nhập khẩu của quốc gia này vận chuyển qua eo Malacca. Và nếu không qua eo Malacca thì chi phí, thời gian vận chuyển đều tăng lên do 4 cảng nhập khẩu dầu trọng yếu và các cơ sở công nghiệp hóa dầu của Trung Quốc đều nằm ở duyên hải phía Đông (Thanh Đảo, Thượng Hải, Phúc Châu, Quảng Châu). Vì thế, nhu cầu đảm bảo an ninh cho việc vận chuyển dầu của Trung Quốc qua Eo Malacca, hoặc đường ống dầu và khí đốt qua Myanma trở nên rất quan trọng.
2. Ấn Độ
Ấn Độ là nền kinh tế lớn thứ 7 trên thế giới. Tuy nhiên GDP bình quân đầu người của quốc gia Nam Á này chỉ đạt 1.723 USD. Ấn Độ có nhiều siêu đô thị, nơi tập trung phần lớn tài sản quốc nội và cũng là nơi sinh sống của tầng lớp trung lưu ngày càng đông đảo. Nhiều khu vực nông thôn của Ấn Độ vẫn trong tình trạng nghèo đói và duy trì lối sống truyền thống kiểu nông thôn.
Ấn Độ có trình độ phát triển kinh tế thấp hơn nhiều so với Trung Quốc và được thức đẩy bởi lĩnh vực dịch vụ. Lĩnh vực này đóng góp gần một nửa vào GDP của Ấn Độ. Quốc gia này có ngành công nghệ thông tin quy mô lớn và là người khổng lồ về sản xuất phần mềm trên thế giới. Ấn Độ cũng có ngành công nghiệp ô tô quy mô lớn. Ấn Độ là nước tiêu thụ than lớn thứ 2 thế giới sau Trung Quốc. Mặc dù có trữ lượng than lớn nhưng Ấn Độ lại là nước nhập khẩu năng lượng. Giống với Trung Quốc, Ấn Độ cũng đầu tư phát triển các dự án năng lượng khổng lồ như các dự án đập Sardar Sarovar và Narmada Sagar. Các đập thủy điện này cung cấp lượng điện lớn, nhưng quá trình xây dựng cũng đã ảnh hưởng không kém tới cộng đồng địa phương và môi trường.
Nhiệt điện than gây ra rất nhiều vấn đề cho sức khỏe và môi trường Ấn Độ. Theo báo cáo mới công bố của Liên minh Môi trường và Y tế, một tổ chức phi lợi nhuận của châu Âu, Ấn Độ tiêu tốn 16,9 tỷ USD để trợ giá cho xăng dầu, khí đốt và than trong những năm 2013, 2014, tuy nhiên chi phí y tế liên quan đến ô nhiễm không khí lại lên đến 140,7 tỷ USD. Một báo cáo của tổ chức Greenpeace Ấn Độ cho thấy tại quốc gia Nam Á này có hàng trăm nghìn người chết mỗi năm do ô nhiễm không khí. Tín hiệu đáng mừng là Chính phủ Ấn Độ đã kêu gọi tăng cường đầu tư vào năng lượng tái tạo và đã có kế hoạch mở rộng các nhà máy năng lượng mặt trời và nhà máy điện gió trên quy mô lớn.
Theo báo cáo của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), hệ thống năng lượng Ấn Độ “chủ yếu dựa vào việc sử dụng than để sản xuất điện, dùng dầu mỏ cho giao thông và cho công nghiệp và dùng sinh khối để sưởi ấm và nấu nướng dân dụng. Nhưng trong đó, than chiếm ưu thế trong hỗn hợp năng lượng của Ấn Độ: Nhiên liệu này vẫn chiếm hơn một nửa mức tiêu thụ năng lượng cơ bản (55,9% năm 2018) và dùng để sản xuất 3/4 sản lượng điện của đất nước.
Ấn Độ cũng là nước tiêu thụ dầu mỏ lớn thứ 3 thế giới (5,2 triệu thùng dầu mỗi ngày năm 2018) sau Hoa Kỳ và Trung Quốc và là quốc gia có sản lượng dầu tinh chế lớn thứ 4 trên thế giới. Theo ước tính của IEA, mức tăng trưởng tiêu thụ dầu của Ấn Độ có thể tăng nhanh hơn bất kỳ nền kinh tế lớn nào khác. Sự tăng trưởng tiêu thụ dầu của Ấn Độ vượt xa Trung Quốc vào giữa những năm 2020, điều này sẽ khiến nước này trở thành một thị trường hấp dẫn để đầu tư vào lọc dầu. Chính vì vậy, IEA khuyên chính phủ Ấn Độ nên coi việc cải thiện an ninh năng lượng là ưu tiên quốc gia. Với trữ lượng dầu hạn chế, Ấn Độ đã phụ thuộc vào hơn 80% lượng nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu của mình và tỷ lệ này sẽ tăng đáng kể trong những thập kỷ tới. Trữ lượng dầu mỏ đã được chứng minh của Ấn Độ là 4.500 triệu thùng vào cuối năm 2018, chỉ bằng gần một nửa trữ lượng của Na Uy. Ấn Độ đã tăng đầu tư vào các mỏ dầu ở Trung Đông và châu Phi, tìm cách đa dạng hóa nguồn cung cấp và có lẽ đang tìm cách tăng dự trữ dầu chiến lược (hiện đã lên tới 40 triệu thùng, tương đương với hơn 10 ngày nhập khẩu ròng của nước này).
Một trong những nghịch lý của tình hình ngành điện Ấn Độ là mặc dù nhiều khu vực rơi vào tình trạng thiếu thốn điện năng, một số bang của nước này lại dư thừa công suất sản xuất điện. Ví dụ: tại Bang Madhya Pradesh, nhu cầu điện năng chỉ bằng chưa đến một nửa công suất sản xuất điện của bang này. Nếu có thể tiến hành buôn bán điện giữa các bang thì các bang lân cận có nhu cầu tiêu thụ điện sẽ được hưởng lợi. Đây là một điều đáng lưu ý bởi Madhya Pradesh là bang ủng hộ mạnh mẽ năng lượng tái tạo. Nó cũng cho thấy một trong những thách thức lớn hơn đối với Ấn Độ là cải thiện cơ sở hạ tầng mạng lưới điện và tìm ra các giải pháp kỹ thuật, quản lý và kinh tế để hiện thực hóa việc truyền tải điện liên bang. Từ năm 2017, Ấn Độ đã bắt đầu trở thành nước xuất khẩu tịnh năng lượng với các đường dây kết nối xuyên quốc gia tới Nepal, Bangladesh và Myanmar.
Ấn Độ cũng đặt mục tiêu tăng tỷ lệ khí trong hỗn hợp năng lượng của mình lên 15% vào năm 2030 (so với khoảng 6% hiện nay). Đất nước này đã có 5 trạm tiếp nhận khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) và có thể nâng con số này lên 11 trong 7 năm tới. IEA cho rằng vai trò của khí đốt ở Ấn Độ trong lĩnh vực dân dụng và giao thông đã tăng lên nhưng vai trò đó lại giảm trong sản xuất điện, do sự cạnh tranh từ than giá rẻ và các nguồn năng lượng tái tạo.
Liên quan đến năng lượng tái tạo, Ấn Độ đã đặt mục tiêu đầy tham vọng: 175 GW công suất năng lượng tái tạo vào năm 2022, trong đó 100 GW công suất quang điện (60 GW từ các trung tâm điện mặt trời và 40 GW từ điện mặt trời áp mái), 60 GW công suất điện gió, 10 GW điện sinh học và 5 GW thủy điện nhỏ. Vào tháng 9 năm 2019, Thủ tướng Shri Narendra Modi đã nêu ra mục tiêu mới 450 GW công suất tái tạo. Vào tháng 12 năm 2019, tổng công suất năng lượng tái tạo được kết nối với lưới điện lên tới 84 GW.
Hình 2: Dự án Năng lượng mặt trời Rewa Ultra Meg (dự án diện lớn nhất châu Á)

Theo IEA, dựa trên các chính sách hiện tại, mức tiêu thụ năng lượng của Ấn Độ vẫn có thể “tăng gấp đôi vào năm 2040 và mức tiêu thụ điện của nước này có thể tăng gấp ba vào thời điểm đó”, đặc biệt là do nhu cầu làm mát tăng lên (1 tỷ máy điều hòa không khí dự kiến vào năm 2050). IEA thừa nhận “những tiến bộ ấn tượng” của Ấn Độ trong những năm gần đây trong việc cải thiện khả năng tiếp cận điện và nấu ăn “sạch”. Đây là hai ưu tiên trong chương trình nghị sự chính trị của Ấn Độ. Từ năm 2000 đến 2019, gần 750 triệu người Ấn Độ đã tiếp cận được nguồn điện. Theo IEA, kinh nghiệm của Ấn Độ trong điện hóa có thể là một mô hình tốt cho các nước châu Phi.
Để chống ô nhiễm không khí, Chính phủ New Delhi đã hỗ trợ phát triển LPG để nấu ăn, thay thế sinh khối truyền thống. Ấn Độ cũng đã có các bước quan trọng trong cải thiện hiệu quả năng lượng như triển khai đèn thay thế đèn LED ở quy mô rất lớn, cung cấp chứng chỉ hiệu quả năng lượng v.v... Điều này giúp tránh được mức tăng thêm 15% trong tiêu thụ năng lượng và giảm 300 triệu tấn khí thải CO2 mỗi năm trong giai đoạn 2000-2018.
Ấn Độ hiện đặc biệt chú ý đến ngành điện, cụ thể là ít sử dụng các nhà máy điện than thay vào đó là tăng cường sử dụng khí đốt và tăng cường các ngành năng lượng tái tạo. Năm 2018, Ấn Độ đã đầu tư nhiều hơn vào năng lượng mặt trời so với tất cả các nguồn năng lượng hóa thạch khác dùng trong sản xuất điện. Ở một số bang của Ấn Độ, tỷ lệ của các ngành này đã cao hơn 15%. Để có được mức độ này, Ấn Độ đã có các chính sách đặc thù để đảm bảo sự tích hợp tốt của năng lượng tái tạo vào hệ thống điện chung và đang nỗ lực tạo ra một thị trường bán buôn điện cạnh tranh, điều này rất quan trọng để cải thiện hoạt động của ngành điện ở Ấn Độ, với các công cụ linh hoạt (lưu trữ, lưới điện thông minh v.v...). Sáng kiến “Make in India” chính là nhằm thu hút các công ty sản xuất các tấm pin mặt trời, pin lithium và cơ sở hạ tầng sạc điện khác ở Ấn Độ.
Cuối cùng, cần lưu ý rằng Ấn Độ có 22 lò phản ứng hạt nhân đang hoạt động (đang xây dựng thêm 7 lò phản ứng mới). Năm 2018, hơn 85% mức tiêu thụ năng lượng cơ bản của Ấn Độ vẫn dựa vào than và dầu. Ấn Độ đang tích cực hợp tác với Nga trong việc phát triển điện hạt nhận dân sự như: Xây dựng nhà máy điện hạt nhân Rooppur ở Bangladesh, dự kiến, lò phản ứng đầu tiên của nhà máy điện hạt nhân này sẽ đi vào hoạt động năm 2023 và lò thứ hai vào năm 2024. Nga và Ấn Độ còn đang muốn hợp tác phát triển năng lượng hạt nhân ở các nước thuộc thế giới thứ ba (một số quốc gia ở Châu Phi). Việc xây dựng các nhà máy điện hạt nhân ở Châu Phi - đặc biệt là Ethiopia - và Trung Đông, sẽ là “kỷ nguyên hợp tác mới” về năng lượng.
3. Thái Lan
Vào những năm 1980, Thái Lan là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh chất châu Á. Tuy nhiên, khủng hoảng tài chính năm 1997 đã ảnh hưởng đến tình hình kinh tế nước này. Năm 2016, Thái Lan được xếp hạng là nền kinh tế lớn thứ 25 thế giới. GDP bình quân đầu người của Thái Lan ở mức 5.889 USD năm 2016. Nhiều khu vực nông thôn vẫn còn nghèo đói và thiếu vốn đầu tư phát triển.
Thái Lan đã khởi xướng một chiến dịch nhằm giảm mức độ phụ thuộc vào việc nhập khẩu dầu thô vào năm 1980 cũng như những năm 1990. Nhờ đó, hoạt động cung cấp điện ở quốc gia này hiện phụ thuộc vào khí đốt tự nhiên nhiều hơn. Năm 2015, 67% điện năng của Thái Lan được sản xuất từ khí thiên nhiên và dự báo tỷ lệ này sẽ giảm xuống còn 51% vào năm 2028 và 37% vào năm 2038. Khoảng 18% điện năng tiêu thụ tại Thái Lan trong năm 2015 được sản xuất từ than cứng và than non. Rất nhiều kế hoạch liên quan đến năng lượng đã được đưa ra. Trước đây, Chính phủ Thái Lan không ưu tiên năng lượng tái tạo nhưng tình hình đang bắt đầu thay đổi do ý thức môi trường và quan ngại về an ninh năng lượng đã cải thiện. Chính phủ đặt mục tiêu nâng mức tỷ trọng nâng lượng tái tạo lên 20% tổng điện năng tiêu thụ tới năm 2038 so với mức gần 5% năm 2015.
4. Indonesia
Được sự uỷ quyền của Chính phủ Indonesia, Bộ Năng lượng và các tài nguyên khoáng sản đã thông qua “Chính sách phát triển năng lượng tái tạo và bảo tồn năng lượng (Năng lượng xanh)” ngày 22 tháng 12 năm 2003.
Tầm nhìn đã được xác định rõ trong chính sách phát triển là để “cung cấp và sử dụng năng lượng một cách hiệu quả, sạch, tin cậy và đầy đủ trong bối cảnh phát triển bền vững”. Để hiện thực tầm nhìn, các trọng trách được đặt ra cho Indonesia cho phát triển năng lượng tái tạo là: Sử dụng tối đa năng lượng tái tạo; Nâng cao khả năng làm chủ công nghệ năng lượng tái tạo; và Tăng nhanh sự tham gia của xã hội vào sử dụng năng lượng tái tạo.
Để đạt được mục tiêu “cung cấp và sử dụng năng lượng bền vững” một số chiến lược đã được nêu ra như: Khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo thông qua sự hỗ trợ của xã hội; Phát triển năng lượng tái tạo ở phạm vi ưu tiên dựa trên tiềm năng sẵn có, công nghệ, tài chính và hiệu quả xã hội.
Để thực hiện các chiến lược phát triển năng lượng tái tạo, các chính sách hỗ trợ về đầu tư thông qua cơ chế khuyến khích về thuế như: miễn thuế VAT và thuế nhập khẩu, hỗ trợ vay vốn nhập công nghệ năng lượng tái tạo, phát triển nguồn nhân lực, cung cấp thông tin, tiêu chuẩn hoá sản phẩm, nghiên cứu phát triển và xây dựng thể chế đã được nêu ra.
Các chương trình ngắn hạn (5 năm) và dài hạn cũng đã được đề xuất, bao gồm các chương trình đầu tư, khuyến khích, giá, tiêu chuẩn hoá thiết bị, xây dựng nguồn nhân lực, thông tin, nghiên cứu và phát triển. Ngoài ra, vai trò của các Bộ, ngành trong việc tham gia thực hiện chính sách cũng đã được xác định, chẳng hạn, Bộ Tài chính có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và thực thi các chính sách về tài chính, Bộ Môi trường có vai trò thực hiện các chính sách về môi trường.... Năm 2014, Chính phủ Indonesia đã ban hành chính sách Năng lượng Quốc gia với kế hoạch tăng cường năng lượng sơ cấp đến năm 2025. Chính sách này bao gồm mục tiêu 23% tỷ trọng năng lượng đến từ nguồn mới và tái tạo, tương đương với việc gia tăng 17% trong vòng 10 năm tới. (Hết phần 1)
Lê Anh Tú
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT