Năm 2020, Việt Nam là nước đang phát triển đầu tiên trên thế giới và là quốc gia thứ tư ở châu Á (sau Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore) ký Hiệp định thương mại tự do (FTA) với Liên minh châu Âu (EU).
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU(EVFTA) là một FTA thế hệ mới giữa Việt Nam và 27 nước thành viên EU. Ngày 01/12/2015, EVFTA đã chính thức kết thúc đàm phán và đến ngày 01/02/2016 văn bản hiệp định được công bố. Ngày 26/06/2018, một bước đi mới của EVFTA được thống nhất. Theo đó, EVFTA được tách làm hai Hiệp định, một là Hiệp định Thương mại (EVFTA) và một là Hiệp định Bảo hộ Đầu tư (EVIPA).
Đối với EVFTA, do đã hoàn tất thủ tục phê chuẩn, Hiệp định này đã chính thức có hiệu lực từ ngày 1/8/2020. Đối với EVIPA,về phía EU, Hiệp định sẽ còn phải được sự phê chuẩn tiếp bởi Nghị viện của tất cả 27 nước thành viên EU mới có hiệu lực.
EVFTA được đánh giá là FTA thế hệ mới với sự mở cửa toàn diện, sâu rộng và sẽ có tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế Việt Nam cũng như các nước thành viên. Với đặc điểm nổi bật trong quan hệ thương mại, đầu tư song phương là tính bổ sung mạnh mẽ, ít lĩnh vực cạnh tranh đối đầu, Hiệp định sẽ mang lại nhiều lợi ích và cơ hội cho các bên tham gia.
Với EVFTA, cam kết mở cửa thị trường lên tới hơn 99% số dòng thuế và kim ngạch thương mại, thuế suất 0% sẽ được áp dụng cho các mặt hàng xuất khẩu (XK) mà hai bên có thế mạnh như dệt may, giày dép, thủy sản, nông sản nhiệt đới, đồ gỗ... của Việt Nam và ô tô, máy móc - thiết bị, rượu bia, dược phẩm, nông sản ôn đới... của châu Âu (EU). Việt Nam và EU đều áp dụng một biểu thuế nhập khẩu (NK) chung cho hàng hóa có xuất xứ của bên còn lại khi nhập khẩu vào lãnh thổ của nhau.
Ba năm kể từ khi Hiệp định thương mại tự do (FTA) với Liên minh châu Âu (EVFTA) có hiệu lực (1/8/2020-1/8/2023), quan hệ kinh tế - thương mại đã thực sự trở thành “điểm sáng” trong bức tranh hợp tác song phương Việt Nam - EU với mức tăng trưởng hai con số.
Với việc thuế nhập khẩu cho nhiều sản phẩm từ châu Âu vào Việt Nam đang giảm theo lộ trình đến 0% sau khi EVFTA có hiệu lực, người tiêu dùng trong nước có cơ hội tiếp cận với nhiều sản phẩm hàng hóa đa dạng và chất lượng cao từ châu Âu với giá thành hợp lý hơn. Giá nhập khẩu nhiều mặt hàng như máy móc, thiết bị từ châu Âu bắt đầu giảm theo lộ trình cũng giúp các doanh nghiệp nâng cao quá trình sản xuất và tạo ra những sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Các ngành hàng có lợi thế xuất khẩu sang EU như dệt may, da giày và vận chuyển đã tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động Việt Nam. Hơn nữa, người lao động cũng có cơ hội nâng cao trình độ chuyên môn của mình để đáp ứng các yêu cầu mới từ EVFTA.
EU là một trong những đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam với kim ngạch thương mại hai chiều tăng trung bình 15-20% năm. Đây là đối tác thương mại lớn thứ 4 và là thị trường XK lớn thứ 2 của Việt Nam. Năm thị trường lớn nhất của Việt Nam trong là Đức, Pháp, Anh, Hà Lan, Italia, cũng là 5 thị trường lớn nhất của Việt Nam trong khu vực châu Âu, với kim ngạch thương mại với các nước này chiếm gần 70% tổng thương mại với toàn khối.
Thống kê cho thấy, kim ngạch XK của Việt Nam sang EU đã tăng từ 12,6 tỷ USD năm 2007 lên 21,1 tỷ USD năm 2011, đạt tốc độ tăng trưởng 13,67%/năm trong giai đoạn 2007 - 2011 và tăng từ 26,2 tỷ USD năm 2012 lên 43,6 tỷ USD năm 2016, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 13,57% trong giai đoạn 2012 - 2016.
Năm 2021 đạt 40,12 tỷ USD, tăng trưởng 14,2%. Năm 2022 đã cán mốc 46,83 tỷ USD, tăng 16,7% so với năm trước. Qua 3 năm thực thi EVFTA, Việt Nam đã xuất sang EU gần 128 tỷ USD hàng hóa. Từ đầu năm đến ngày 31/7/2023, kim ngạch XK của Việt Nam sang EU đạt 25 tỷ USD.
Các mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD vào thị trường EU hàng năm trong 3 năm qua bao gồm điện thoại và linh kiện, máy vi tính, giày dép, máy móc thiết bị phụ tùng, hàng dệt may, cà phê, sắt thép và hải sản (sắt thép tăng trưởng vượt qua 844% trong năm 2021 so với năm 2020 và hơn 634% trong năm 2022 so với năm 2020). Tuy nhiên, mặt hàng điện thoại và linh kiện đã ghi nhận sự giảm sút lần lượt là 9,5% vào năm 2021 và 15,7% vào năm 2022 so với năm trước đó.
Thực tế cho thấy, một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vẫn chưa đạt được như kỳ vọng. Rau củ quả, thủy sản và gạo mặc dù có mức tăng trưởng khá tốt, nhưng chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng giá trị nhập khẩu của EU. Mặt hàng thủy sản vẫn chưa gỡ được thẻ vàng IUU từ Ủy ban châu Âu (EC). Ngoài ra, có một số mặt hàng chưa có dấu hiệu tăng trưởng sau khi Hiệp định được thực thi, như giấy và các sản phẩm từ giấy, hạt điều…
Nhìn chung, thị phần của hàng hóa Việt trên thị trường EU chỉ chiếm khoảng 2%. Giá trị và lợi ích mà các doanh nghiệp Việt Nam thu được từ hoạt động XK vẫn còn hạn chế do thương hiệu Việt Nam chưa được biết đến rộng rãi tại các nước EU. Mặc dù một số doanh nghiệp đã tham gia vào việc chế biến để xuất khẩu sang EU, nhưng hầu hết vẫn chỉ là gia công hàng hóa cho các đối tác nước ngoài. Còn nhiều vấn đề đặt ra để doanh nghiệp tận dụng lợi thế của Hiệp định, đưa hàng Việt hiện diện nhiều hơn tại thị trường cao cấp, khó tính nhưng vô cùng tiềm năng này.
Châu Âu là một thị trường khó tính với tiêu chuẩn hàng hoá rất khắt khe vì vậy doanh nghiệp Việt Nam muốn tiếp cận thị trường này cần phải có nỗ lực thay đổi, thích ứng và cần được hỗ trợ từ các cơ quan quản lý.
Doanh nghiệp Việt Nam vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc tuân thủ các quy định về xuất xứ hàng hóa và truy xuất nguồn gốc. Đối với các ngành hàng nông lâm sản, các nhà khai thác và thương nhân phải chứng minh rằng sản phẩm hợp pháp và không vi phạm quy định về phá rừng (Việt Nam chưa có hệ thống xuất xứ từ nông hộ và từng khu vực trồng trọt để có thể chứng minh với thị trường EU).
Thủy sản là ngành được ưu đãi nhất về thuế, nhưng cơ hội này sẽ không được tận dụng triệt để nếu không gỡ được thẻ vàng IUU.
EU cũng là một thị trường có tiêu chuẩn chất lượng nghiêm ngặt, yêu cầu an toàn cao với hàng hóa công nghiệp. Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU không có thương hiệu riêng hoặc được phân phối thông qua nhãn hiệu nước ngoài.
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa đạt được sự tự chủ trong việc tìm hiểu và tận dụng những ưu đãi từ Hiệp định. Theo khảo sát của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), mặc dù gần 94% doanh nghiệp đã nghe nói hoặc biết về EVFTA, nhưng chỉ khoảng 40% trong số đó hiểu tương đối hoặc hiểu rõ về cam kết của Hiệp định này đối với hoạt động kinh doanh của mình.Trong đó, nhóm doanh nghiệp FDI có tỷ lệ hiểu khá rõ hoặc rõ về EVFTA cao nhất (43%). Ngoài ra, các doanh nghiệp vẫn chưa khai thác hết lợi thế từ hiệp định này để mở rộng tiêu thụ sang các quốc gia thành viên khác. Trong 27 quốc gia thành viên của EU, nhiều doanh nghiệp Việt Nam chỉ giao thương chủ yếu với 5-6 quốc gia, trong khi giao thương với các quốc gia khác vẫn còn rất ít.
Cần nhớ là, quá trình giảm dần thuế theo EVFTA kéo dài hơn 10 năm đối với Việt Nam và 7 năm đối với hàng nhập khẩu của EU. Tác động đầy đủ của EVFTA dự kiến được hiện thực hóa sau một thập kỷ hoặc lâu hơn và đó là nguyên nhân lý giải tại sao những thay đổi đáng kể trong cơ cấu ngành được hưởng lợi vẫn chưa xảy ra.
Nhìn chung, dư địa và cơ hội từ thị trường EU vẫn rất lớn. Xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ tiếp tục tăng trưởng, đặc biệt ở những ngành mà EU không phải là nhà sản xuất chính. Các lĩnh vực như thiết bị điện tử, giày dép, dệt may, máy móc và dịch vụ hứa hẹn sẽ mở rộng trong tương lai.Nhiều doanh nghiệp chỉ mới tập trung giao thương với 5-6 nước trên tổng số 27 nước thành viên của EU.
Mặc dù nhiều mặt hàng có tỷ lệ tận dụng ưu đãi cao từ EVFTA như thủy sản hay rau củ quả nhưng giá trị xuất khẩu vẫn còn khiêm tốn. Việt Nam chỉ xếp thứ 50 trong số các thị trường cung cấp rau củ quả cho EU năm 2022, chiếm khoảng 0,2% tổng giá trị nhập khẩu mặt hàng này của EU.
Lợi thế từ EVFTA sẽ trở nên ít quan trọng hơn khi các đối thủ trong khu vực Đông Nam Á như Malaysia và Thái Lan đang tiến tới ký kết FTA với EU.
Vào năm 2019, Châu Âu đã tiến hành thực hiện thỏa thuận Xanh Châu Âu (European Green Deal - EGD). Nhằm hướng đến mục tiêu giảm thiểu sự phát thải khí nhà kính và hạn chế sử dụng tài nguyên thiên nhiên nhưng vẫn đảm bảo về mặt phát triển kinh tế.Thỏa thuận Xanh coi các sản phẩm bền vững là tiêu chuẩn ở EU. Nhiều sáng kiến trong chính sách sản phẩm bền vững đang được chờ đợi trong tương lai gần và doanh nghiệp sẽ cần theo dõi lĩnh vực này để biết liệu chúng có ảnh hưởng đến doanh nghiệp của mình hay không và ảnh hưởng như thế nào. Một số chính sách/chiến lược có thể nhìn thấy ngay việc ảnh hưởng đến xuất khẩu sang EU là Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), Chiến lược từ Trang trại đến bàn ăn (Farm to Fork), Kế hoạch Hành động kinh tế tuần hoàn, hay là Chiến lược đa dạng sinh học đến năm 2030. Thỏa thuận Xanh châu Âu có khả năng ảnh hưởng đến một số ngành công nghiệp của Việt Nam, tùy thuộc vào bản chất của ngành và các biện pháp cụ thể được đưa ra theo thỏa thuận. Những lợi thế đạt được từ EVFTA có thể bị xói mòn phần nào bởi diễn biến hoạch định chính sách trong khu vực EU, nổi bật là Thỏa thuận Xanh châu Âu.
Quy định về Chống mất rừng và suy thoái rừng (EUDR) cấm một số nhóm mặt hàng nông - lâm sản có liên quan (trực tiếp hoặc gián tiếp) tới mất rừng được nhập khẩu vào thị trường này. Lý do EU đưa ra là bởi mất rừng là nguyên nhân trực tiếp gây ra biến đổi khí hậu. Nhóm mặt hàng đang nằm trong sự quản lý của EUDR bao gồm gỗ, cà phê, ca cao, dầu cọ, thịt bò, đậu tương, cao su…và các sản phẩm được chế biến từ các nhóm này.
Xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong thời gian tới sẽ chịu không ít tác động bởi đạo luật này, trong đó cà phê là mặt hàng chiếm tỉ trọng xuất khẩu lớn nhất của ngành nông, lâm sản của Việt Nam sang thị trường Châu Âu.
Doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động tiếp thu kiến thức và nâng cao hiểu biết về các tiêu chuẩn và quy định của EU để tận dụng tối đa lợi ích từ hiệp định EVFTA. Theo đó,cần tập trung vào việc nâng cao quản lý, chất lượng nhân lực, đổi mới công nghệ, nhanh chóng xây dựng và phát triển thương hiệu, cũng như thiết lập chiến lược kinh doanh dài hạn tại thị trường này. Tìm kiếm sự hỗ trợ từ các cơ quan nhà nước, đặc biệt là trong khuôn khổ các chương trình hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh. Ưu tiên tập trung vào các khía cạnh còn yếu thay vì điều chỉnh dàn trải. Tăng cường hợp tác và liên kết giữa các doanh nghiệp, đặc biệt là thông qua các hiệp hội, để chia sẻ kiến thức, kỹ thuật và mở rộng mạng lưới phân phối, khả năng cạnh tranh.
Giảm thuế là một khía cạnh quan trọng của hiệp định, nhưng đó không phải là yếu tố duy nhất quyết định cho sự thành công tại thị trường châu Âu. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam cần tăng độ nhận diện thương hiệu và thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các đối tác tại nước nhập khẩu. Trở thành một phần của mạng lưới kinh doanh đa dạng là một lợi thế cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang tìm cách tối đa hóa lợi ích của EVFTA.
Cơ quan Nhà nước cần tổ chức các chương trình hỗ trợ cải thiện năng lực cạnh tranh, tập trung vào các vấn đề ưu tiên của doanh nghiệp như nâng cao chất lượng sản phẩm, đào tạo kỹ năng quản lý cho lãnh đạo và chuyên môn cho người lao động, và cải thiện công nghệ. Mặt khác, nên thiết lập các diễn đàn hoặc kênh kết nối đối tác, chắp mối kinh doanh giữa doanh nghiệp ở Việt Nam và đối tác.
Hiện tại, các biện pháp hỗ trợ mới chỉ áp dụng chung cho tất cả các ngành và các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý Nhà nước cần tập trung cụ thể vào các ngành có mặt hàng chiến lược để tận dụng mọi lợi ích từ Hiệp định này. Đồng thời, cần tạo kết nối giữa tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình thực thi EVFTA, bao gồm các cơ quan từ Trung ương đến địa phương, doanh nghiệp và các hiệp hội nhằm hình thành một chuỗi có sự hỗ trợ lẫn nhau. Bên cạnh đó, cần xem xét và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đơn giản hóa và cắt giảm các thủ tục hành chính trong lĩnh vực xuất nhập khẩu vì nhiều doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn trong thủ tục hành chính liên quan lĩnh vực này./.
Vũ Huy Hùng
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT