BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC, CHÍNH SÁCH CÔNG THƯƠNG

Tình hình sản xuất công nghiệp và thương mại tỉnh Hải Dương 5 tháng năm 2024

19/06/2024

Trong tháng 5 và 5 tháng, sản xuất công nghiệp tỉnh Hải Dương có nhiều thuận lợi do số lượng đơn hàng tăng cao; tiêu dùng trong dân cư giảm nhẹ so với các tháng đầu năm nhưng giá cả hàng hoá ổn định, nguồn cung dồi dào. Theo số liệu của Cục Thống kê tỉnh Hải Dương, tình hình cụ thể như sau:

1. Sản xuất công nghiệp

Từ đầu năm 2024, tổng cầu trên thế giới, đặc biệt là các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc… có chuyển biến tốt so với cùng kỳ năm trước. Đồng thời, UBND tỉnh và các sở ban ngành tích cực lắng nghe, giải quyết những khó khăn vướng mắc cho doanh nghiệp; tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường… Nhờ đó hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp tục tăng trưởng ổn định.

 Chỉ số sản xuất công nghiệp

Sản xuất công nghiệp tỉnh Hải Dương tháng 5 tiếp tục xu hướng tăng cao, các ngành sản xuất trọng điểm có mức tăng trưởng tốt. Sản xuất công nghiệp tháng 5 tăng 1,2% so với tháng trước; tăng 13,7% so với cùng kỳ. Một số sản phẩm trọng điểm tăng cao như: Thức ăn gia súc, tăng 8,2%; vải dệt kim tăng 34,0%; quần áo người lớn tăng 13,2%; mạch điện tử tích hợp tăng 28,0%; điện sản xuất tăng 20,6%.

Tính chung 5 tháng, chỉ số sản xuất công nghiệp của tỉnh bằng 114,1% so với cùng kỳ năm trước. Một số ngành có tỷ trọng lớn, có chỉ số tăng cao tác động nhiều đến chỉ số chung của toàn ngành như sau:

- Ngành sản xuất và phân phối điện, tính chung 5 tháng tăng 21,1% làm chỉ số chung toàn ngành công nghiệp tăng 2,0 điểm%. Thực hiện chỉ đạo của Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia về đảm bảo điện sản xuất và tiêu dùng trong năm 2024, 02 doanh nghiệp sản xuất nhiệt điện của tỉnh đều được huy động công suất cao ngay từ những tháng đầu năm. Bên cạnh đó việc Công ty CP Nhiệt điện Phả Lại đã khắc phục xong sự cố của tổ máy S6 và đưa vào vận hành từ tháng 9/2023 đã làm sản lượng điện sản xuất 5 tháng của doanh nghiệp này đạt 2.282 triệu kwh, tăng 82% so với cùng kỳ;

- Ngành sản xuất xe có động cơ (chủ yếu là sản xuất bộ phận phụ trợ) tăng 14,5%, tác động làm chỉ số chung toàn ngành công nghiệp tăng 3,8 điểm%. Thời gian gần đây, nhu cầu mua xe ô tô, xe máy của các cá nhân, gia đình ngày càng tăng cao. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất linh kiện, bộ phận phụ trợ, phổ biến là phục vụ xe của các hãng: Honda, Toyota, Hyundai, Kia, Mazda…;

- Ngành sản xuất các sản phẩm điện tử tăng 10,7%, tác động làm chỉ số chung tăng 2,9 điểm%. Trong bối cảnh thế giới đang chuyển đổi sang kỷ nguyên số, các sản phẩm điện tử ngày càng được sử dụng rộng rãi; mở rộng liên kết giữa các thiết bị điện tử thông minh với nhau cũng như xu hướng phát triển trí tuệ nhân tạo và công nghệ xanh đã tạo động lực tăng trưởng xuất khẩu cho các doanh nghiệp trong ngành;

- Ngành may mặc tăng 14,6%, tác động làm chỉ số chung tăng 0,7 điểm%. Trong thời gian qua, sức mua hàng may mặc trên thị trường thế giới đang tăng lên, nhiều doanh nghiệp dệt may trên địa bàn tỉnh đã ký được đơn hàng đến hết quý II/2024, thậm chí một số đã có đơn hàng đến quý III/2024. Trong nước, mặt bằng lãi suất cho vay giảm đáng kể, giúp giảm sức ép chi phí lãi vay, trong khi các chính sách hỗ trợ của Chính phủ về thuế, đất đai… được kéo dài trong năm 2024;

- Ngành sản xuất, chế biến thực phẩm (trong đó sản phẩm chính là sản xuất thức ăn chăn nuôi) tăng 11,8%, tác động làm chỉ số chung tăng 0,7 điểm%. Thời gian qua, ngành chăn nuôi trong nước đã có sự phát triển nhanh chóng do nhu cầu về thịt gia súc, gia cầm, thủy sản và các sản phẩm từ sữa ngày càng tăng cao. Đi cùng với đó là nhu cầu cung cấp thức ăn chăn nuôi có chất lượng, đầy đủ dinh dưỡng để đảm bảo tăng trưởng và năng suất. Việc quy mô đàn vật nuôi tăng trưởng ổn định song song với giá thành nguyên liệu đầu vào như ngô, đậu tương hạ nhiệt so với thời kỳ đỉnh điểm là những yếu tố góp phần cho sự tăng trưởng của ngành;

- Ngành sản xuất thiết bị điện tăng 45,2% (do máy phát điện tăng 202,0%), làm chỉ số chung tăng 1,4 điểm%. Bên cạnh việc các thị trường xuất khẩu là Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc có sự phục hồi, nhu cầu đối với các thiết bị điện gia dụng có xu hướng tăng. Ngoài ra, sự phát triển mạnh về hạ tầng cơ sở, đô thị hóa và hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ cũng tạo cơ hội cho các doanh nghiệp sản xuất dây cáp điện phát triển.

Tuy nhiên, một số ngành gặp khó khăn do nhu cầu thị trường phục hồi chậm, sản lượng sản xuất so với cùng kỳ tăng không cao (hoặc giảm), làm ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng chung của toàn ngành đó là:

-  Ngành sản xuất kim loại giảm 7,1%, làm chỉ số chung tăng 0,4 điểm%. Đây là một trong 3 ngành có tỷ trọng lớn nhất trong giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh nhưng mức tăng trưởng thấp hơn mức tăng bình quân toàn ngành. Nhu cầu thị trường trong nước hồi phục không như kỳ vọng, đồng thời lượng thép nhập khẩu từ Trung Quốc và Ấn Độ tăng đột biến cũng đã gây áp lực rất lớn cho các doanh nghiệp trong ngành;

- Ngành sản xuất các sản phẩm từ khoáng phi kim loại (xi măng, gạch ngói), giảm 7,3%, làm chỉ số chung giảm 0,2 điểm%. Những tín hiệu phục hồi cho thị trường vật liệu xây dựng còn khá mờ nhạt do thị trường bất động sản vẫn còn khó khăn và phục hồi ở mức độ chậm, chưa thể trở thành cú hích cho thị trường vật liệu xây dựng trong ngắn hạn;

- Sản phẩm xe có động cơ lắp ráp giảm 18,3%, nguyên nhân là do hiệu ứng phủ thị trường của những dòng xe mới năm 2023 của công ty TNHH Ford Việt Nam không còn.

Chỉ số sử dụng lao động

Tình hình sử dụng lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 31/5 dự ước tăng 0,6% so với tháng trước, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 5 tháng, lao động trong ngành tăng 2,1% so với cùng kỳ. Một số ngành có số lượng lao động tăng so với cùng kỳ là: sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 3,1%; dệt tăng 7,5%; sản xuất trang phục tăng 2,4%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 3,2%; sản xuất cao su và plastic tăng 5,5%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 3,8%; sản xuất thiết bị điện tăng 3,7%; sản xuất xe có động cơ tăng 2,1%; công nghiệp chế biến chế tạo khác tăng 2,8%…

Các ngành có số lượng lao động 5 tháng giảm so với cùng kỳ năm trước là: Khai khoáng khác (-5,5%); sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác (-5,1%); sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc thiết bị (-8,2%); sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí (-0,02%).

2. Thương mại, xuất nhập khẩu

Hoạt động thương mại, dịch vụ tháng 5 tiếp tục ổn định, nguồn cung các loại hàng hóa, đặc biệt là hàng hóa thiết yếu dồi dào đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng, giá cả hàng hoá ổn định không có biến động bất thường, thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các ngành và lĩnh vực.

Tháng 5, tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 8.521 tỷ đồng, tăng 12,7% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu hoạt động vận tải kho bãi đạt 1.286 tỷ đồng, tăng 16,5% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 5 tháng, tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 41.784 tỷ đồng, tăng 13,0% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu hoạt động vận tải kho bãi ước đạt 6.435 tỷ đồng, tăng 16,7% so với cùng kỳ năm trước.

Bán lẻ hàng hoá

Doanh thu bán lẻ hàng hoá tháng 5 ước đạt 7.018 tỷ đồng, tăng 1,5% so với tháng trước và tăng 13,2% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 5 tháng, doanh thu bán lẻ hàng hoá ước đạt 34.265 tỷ đồng, tăng 12,8% so với cùng kỳ năm trước; phân theo mặt hàng:

– Lương thực, thực phẩm đạt 12.408 tỷ đồng, tăng 15,8%;

– Đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình đạt 4.315 tỷ đồng, tăng 12,6%;

– Gỗ và vật liệu xây dựng đạt 4.185 tỷ đồng, tăng 8,5%;

– Xăng dầu các loại đạt 3.666 tỷ đồng, tăng 16,5%.

Xuất, nhập khẩu hàng hoá

Giá trị hàng hóa xuất khẩu tháng 5 ước đạt 859 triệu USD, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước; tính chung 5 tháng xuất khẩu ước đạt 3.855 triệu USD, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước. Dù giá trị hàng hoá xuất khẩu của Tỉnh tăng thấp hơn mức tăng chung của cả nước (ước tăng trên 10%), nhưng tốc độ tăng của Tỉnh lại tăng khá đồng đều và ổn định giữa các tháng hơn so với cả nước.

Giá trị hàng hoá nhập khẩu tháng 5 ước đạt 736 triệu USD, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm trước; tính chung 5 tháng nhập khẩu ước đạt 3.191 triệu USD tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước./.

Nguyễn Kiều Ly

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT