BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC, CHÍNH SÁCH CÔNG THƯƠNG

Tình hình hợp tác kinh tế giữa Việt Nam - Trung Quốc hiện nay

05/05/2024

Hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc đã đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ năm 1991 đến nay và trong tiến trình đó, việc nâng cấp quan hệ chính trị luôn tạo nền tảng và động lực quan trọng cho hợp tác kinh tế song phương. Chuyến thăm Việt Nam của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tháng 12/2023 đã xác lập dấu mốc lịch sử trong quan hệ hai nước, mở ra cơ hội và triển vọng hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, đầu tư và thương mại.

Hợp tác về đầu tư

Bất chấp bối cảnh kinh tế thế giới khó khăn, lượng vốn  thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) Trung Quốc đổ vào Việt Nam vẫn tăng trưởng mạnh mẽ. Tính đến ngày 20/11/2023, tổng số dự án FDI của Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam đạt 4.161 dự án (đứng thứ 3/143 quốc gia và vùng lãnh thổ), với tổng số vốn hơn 27 tỷ USD (đứng thứ 6/143 quốc gia và vùng lãnh thổ), bình quân mỗi dự án khoảng 6,50 triệu USD/dự án, thấp hơn bình quân của toàn quốc (8,56 triệu USD/dự án). Riêng năm 2023, các nhà đầu tư Trung Quốc đã đầu tư khoảng 4 tỷ USD vào Việt Nam, đứng thứ 4 trong 143 quốc gia và vùng lãnh thổ có FDI tại nước ta. Về lĩnh vực đầu tư, nhà đầu tư Trung Quốc đã đầu tư vào 19/21 ngành, lĩnh vực, nhưng tập trung nhiều nhất ở lĩnh vực chế biến, chế tạo với 2.202 dự án, tổng vốn đăng ký 19,8 tỷ USD, chiếm 78,7%. Về địa bàn, doanh nghiệp Trung Quốc có mặt tại 56/63 tỉnh, thành phố của Việt Nam; dẫn đầu là Tây Ninh với 89 dự án, vốn đăng ký 5 tỷ USD, chiếm 19,7%; Bắc Giang 151 dự án, vốn đăng ký 2,18 tỷ USD; Bình Thuận 10 dự án, vốn đăng ký 2 tỷ USD.

Một số dự án lớn, điển hình của Trung Quốc đầu tư tại Việt Nam như: Công ty TNHH Công nghiệp Jinko Solar Việt Nam (1,5 tỷ USD) - ngành nghề về Công nghệ tế bào quang điện; Tập đoàn Deli (Trung Quốc) đầu tư 400 triệu USD, tại tỉnh Hải Dương - Khu công nghiệp (KCN) Đại An mở rộng; Công ty BoViet - công ty con thuộc Tập đoàn BoWay (Trung Quốc) - vốn đầu tư khoảng 120 triệu USD dự kiến sẽ thu hút khoảng 4.000 lao động, ngành nghề: sản xuất tấm tế bào quang điện năng lượng mặt trời; Công ty Innovation Precision Việt Nam (thuộc Tập đoàn Shandong Innovation Metal Technology Trung Quốc) - xây nhà máy hợp kim nhôm tổng vốn 165 triệu USD tại KCN VSIP Nghệ An; Runergy xây nhà máy vật liệu bán dẫn 293 triệu USD ở Nghệ An. Ngoài ra, Việt Nam có 7 KCN, KCX do các nhà đầu tư Trung Quốc làm chủ đầu tư, hiện các KCN này đều đang hoạt động ổn định và tuân thủ đúng các quy định của pháp luật.

Về chất lượng vốn đầu tư từ Trung Quốc, trước đây, đa số các dự án có quy mô nhỏ, công nghệ trung bình và thấp, thâm dụng lao động và năng lượng, một số dự án gây ô nhiễm môi trường. Chính vì lẽ đó, một số địa phương có phần e ngại khi tiếp xúc với các dự án FDI đến từ Trung Quốc.

Tuy nhiên, trong vài thập kỷ qua, nắm bắt cơ hội cuộc cách mạng công nghệ và chuyển đổi số, Trung Quốc nổi lên trở thành quốc gia cạnh tranh mạnh mẽ với Mỹ và các nước phát triển trong nhiều lĩnh vực then chốt của kinh tế và công nghệ tương lai như đường sắt, tàu cao tốc không người lái, phát triển năng lượng xanh, điện tử, công nghệ 5G phổ cập toàn quốc, trí tuệ nhân tạo AI, công nghệ vũ trụ. Trung Quốc tham vọng đến năm 2049, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, trở thành quốc gia dẫn đầu thế giới về kinh tế và khoa học công nghệ.

Chính bởi lẽ đó, việc thu hút các dự án công nghệ cao từ Trung Quốc đang thực sự là cơ hội để Việt Nam cải thiện chất lượng hiệu quả thu hút FDI, đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư từ các quốc gia vùng lãnh thổ, thực hiện hóa lợi ích và kết quả hội nhập kinh tế quốc tế, phát huy giá trị của đường lối ngoại giao liên kết đầy năng động và thân thiện. Để thu hút hiệu quả các dự án FDI công nghệ cao từ  Trung Quốc, từ đó tạo hiệu ứng lan tỏa phát triển các DN, Việt Nam cần tạo lập hệ sinh thái cho thu hút và phát triển công nghệ. Cải thiện hiệu quả môi trường đầu tư kinh doanh, tạo thuận lợi tối đa cho DN gồm hệ thống chính sách văn bản pháp luật, thủ tục hành chính thông thoáng, minh bạch, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội phát triển.

Hợp tác về thương mại

Với nhiều lợi thế trong hợp tác kinh tế thương mại, nhiều năm qua, trao đổi thương mại giữa Việt Nam - Trung Quốc vẫn duy trì đà tăng trưởng ổn định và bền vững.

Trung Quốc và Việt Nam có chung đường biên giới trên bộ, trên biển và đường thủy. Việt Nam và Trung Quốc có đường biên giới trên đất liền dài khoảng 1.449,566 km, trong đó có 383,914 km đường biên giới đi theo sông suối, tiếp giáp giữa 7 tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh của Việt Nam với tỉnh Vân Nam và Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây của Trung Quốc. Đặc điểm này mang lại cho hai nước lợi thế để phát triển kinh tế, nhất là kinh tế thương mại khu vực biên giới, cửa khẩu. Cùng với đó, trong quan hệ thương mại, tính bổ sung lẫn nhau trong cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hóa giữa hai nước vẫn rất lớn.

Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc các mặt hàng như điện thoại di động, linh kiện, thiết bị điện tử, cao su, nông sản, thủy hải sản... và nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc các sản phẩm như máy móc, thiết bị, nguyên liệu sản xuất trong ngành may mặc, giày da, sắt thép, vật tư xây dựng...

Nhiều năm qua, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Tổng kim ngạch thương mại hai chiều của Việt Nam và Trung Quốc chiếm 1/4 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với thế giới. Ở chiều ngược lại, Việt Nam là một trong các đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc với thế giới, đối tác lớn nhất của Trung Quốc trong ASEAN.

Theo số liệu của Cục hải quan, năm 2018, tổng kim ngạch thương mại song phương Việt Nam - Trung Quốc lần đầu tiên vượt mốc 100 tỷ USD. Kể từ đó, kim ngạch thương mại giữa hai nước không ngừng tăng, cụ thể: năm 2019 đạt 111,86 tỷ USD, năm 2020 đạt 133,l tỷ USD và những năm đại dịch covid-19 cũng đạt mức cao, với 165,88 tỷ USD năm 2021, và 175,56 tỷ USD năm 2022; năm 2023, tổng kim ngạch thương mại song phương đạt gần 171,2 tỷ USD, chiếm hơn 25% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước. Trung Quốc nhiều năm gần đây là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt nam, sau Mỹ. Năm 2023, xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 61,2 tỷ USD, tăng 6,4% so với năm 2022 (tương ứng tăng thêm 3,5 tỷ USD), trong đó, có 12 nhóm hàng xuất khẩu sang thị trường này đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên. Đáng chú ý, hoạt động xuất khẩu của nước ta sang Trung Quốc vẫn duy trì được tăng trưởng dương trong khi kim ngạch nhập khẩu giảm. Với mặt hàng rau quả, xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm tỷ trọng 53,7% lượng hàng xuất ra nước ngoài; xuất khẩu vải thiều chiếm 90%; thanh long chiếm hơn 80%; cao su là 71% và Trung Quốc hiện là thị trường thứ 3 của xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Một số mặt hàng nông sản của Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc đã tăng trưởng đột biến trong năm 2023, nổi bật là sầu riêng đạt hơn 2,2 tỷ USD, tăng khoảng 5 lần so với năm 2022.

Bên cạnh những kết quả đạt được, hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc những năm qua luôn tồn tại một vấn đề lớn là tính hiệu quả chưa cao. Về thương mại, mặc dù kim ngạch thương mại song phương tăng trưởng mạnh, nhưng thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc tăng nhanh và lên mức kỷ lục hơn 60 tỷ USD vào năm 2022, khoảng 50 tỷ USD năm 2023; mức độ phụ thuộc của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc ngày càng lớn. Tình trạng thiếu trao đổi thông tin, thiếu ổn định chính sách thương mại dẫn đến ùn ứ cục bộ trong xuất khẩu hàng hóa, nông sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc diễn ra thường xuyên.

Triển vọng trong thời gian tới

Trong chuyến thăm của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đến Việt Nam trong tháng 12/2023 vừa qua đã mở ra những kỳ vọng mới trong quan hệ hợp tác giữa hai nước nói chung và hợp tác về kinh tế nói riêng. Đặc biệt trong 36 thỏa thuận được ký kết giữa hai quốc gia, 2/3 số thỏa thuận liên quan đến hợp tác kinh tế - đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng… đã thể hiện tinh thần quyết tâm thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa hai quốc gia lên một tầm cao mới.

Tuyên bố Chung đã nêu ra một số lĩnh vực đầu tư, thương mại, hai bên nhất trí cùng thúc đẩy hợp tác:

Về đầu tư: Trung Quốc nhận định rằng Việt Nam có vị trí đặc biệt quan trọng trong chuỗi cung ứng giữa Trung Quốc và các nước khác, nhất là các sản phẩm điện tử và dệt may. Theo ông Gu Xiaosong, chuyên gia về Việt Nam, Viện trưởng Viện Nghiên cứu ASEAN thuộc Đại học Nhiệt đới Hải Nam, Trung Quốc có một lượng lớn nguyên liệu, linh kiện xuất khẩu sang Việt Nam để chế biến, thành phẩm sau đó được xuất khẩu sang Hoa Kỳ, Châu Âu và những nơi khác. Các nhà đầu tư Trung Quốc để ý Việt Nam bởi vị trí địa lý tiếp giáp với nhau và thị trường Việt Nam mở với việc tham gia hàng loạt các hiệp định thương mại tự do với các đối tác rộng lớn như EVFTA, CPTPP, RCEP…. Cùng với đó, Trung Quốc cũng nhận ra Việt Nam đã có những lợi thế so sánh nhất định trong các ngành công nghiệp, phù hợp với xu hướng chuyển giao chuỗi công nghiệp của Trung Quốc, từ đó tạo nên sự chủ động đầu tư sang thị trường Việt Nam để nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế của sản phẩm.

Về thương mại. Trung Quốc với quy mô dân số lớn thứ 2 thế giới với thị trường hơn 1,3 tỷ người, có nhu cầu tiêu dùng rất lớn và Việt Nam với thị trường kinh tế mở với nhiều FTA quan trọng, sẽ tạo điều kiện cho thương mại giữa hai nước tiếp tục tăng trưởng. Cùng với vị trí địa lý thuận lợi, Trung Quốc và Việt Nam cùng chung các khuôn khổ hợp tác như Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), Khu vực Thương mại Tự do Trung Quốc-ASEAN (CAFTA),… tạo điều kiện thuận lợi cho gia tăng hoạt động trao đổi thương mại giữa hai nước. Trong “Báo cáo chuyên đề quốc tế: Làm thế nào Trung Quốc và Việt Nam có thể đạt được hợp tác kinh tế và thương mại cùng có lợi trong khuôn khổ RCEP” của Đại học Bắc Kinh (Trung Quốc), nhóm tác giả cũng đã đưa ra nhưng khuyến nghị rằng Trung Quốc nên chủ động mở rộng nhập khẩu các mặt hàng lợi thế của Việt Nam và chủ động tăng cường đầu tư trực tiếp vào Việt Nam để khai thác các lợi thế cạnh tranh của Việt Nam, bổ sung cho nền kinh tế Trung Quốc.

Những đề xuất đối với Việt Nam

Phát triển hợp tác kinh tế với Trung Quốc sâu rộng trên mọi lĩnh vực là phương hướng tất yếu để nâng cao giá trị lợi ích kinh tế cho Việt Nam, đồng thời làm tốt đẹp quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt-Trung. Để thực hiện điều đó, không thể thiếu đi sự hỗ trợ từ chính phủ hai bên. Theo bà Ye Yan, Ban Thư ký Hội nghị Thượng đỉnh kinh doanh và đầu tư Trung Quốc – ASEAN (CABIS), giải pháp để tăng cường hợp tác song phương kinh tế và đầu tư giữa hai nước là tích cực phát huy vai trò của cơ quan xúc tiến thương mại, thúc đẩy các kênh hợp tác công nghiệp. Tuy nhiên, đi đôi với đẩy mạnh quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước, Việt Nam cũng cần lưu ý một số vấn đề sau:

Trong lĩnh vực đầu tư: Đối với đầu tư, số lượng cần đi đôi với chất lượng. Cùng với thu hút vốn đầu tư từ Trung Quốc, Việt Nam cũng cần lưu ý kiểm soát hiệu quả và cải thiện chất lượng của dòng vốn này. Một số doanh nghiệp Trung Quốc thường đầu tư vào các lĩnh vực ít mang lại giá trị gia tăng cao, lại dễ gây ô nhiễm môi trường như khai khoáng, hóa chất, dệt may… Do đó, Việt Nam cần phải có chọn lọc trong việc lựa chọn các dự án đầu tư, phù hợp với bối cảnh và định hướng nền kinh tế của Việt Nam.

Việt Nam cũng cần lưu ý khi nhận đầu tư từ Sáng kiến Vành đai và Con đường, nhất là các rủi ro về làm gia tăng nợ công, chuyển đổi công nghệ lạc hậu, thiếu minh bạch trong đấu thầu và hiệu quả dự án thấp. Đồng thời, để nâng cao hiệu quả các dự án đầu tư trong phát triển nền kinh tế, Việt Nam phải có những hành động thực tế, chủ động đốc thúc và thiết lập các biện pháp để tăng tốc độ giải ngân của dự án, không để các dự án chậm tiến độ, đội vốn, làm giảm chất lượng thi công.

Cùng với đó, Trung Quốc thường đưa lao động từ nước họ sang để làm việc trong các dự án đầu tư FDI. Việc kiểm soát tỷ lệ lao động Trung Quốc trong doanh nghiệp là cần thiết, điều này vừa tạo điều kiện cho lao động Việt Nam, giúp khai thác tốt hơn nguồn vốn FDI và đặc biệt là đảm bảo an ninh cho khu vực nhận đầu tư.

Ngoài ra, kể từ cuộc căng thẳng thương mại Mỹ – Trung, khi Mỹ áp đặt mức thuế nhập khẩu cao đối với hàng hóa từ Trung Quốc, các doanh nghiệp Trung Quốc đã gia tăng đầu tư ra nước ngoài để đối phó với các biện pháp của Mỹ. Việt Nam, nước láng giềng với Trung Quốc có mối quan hệ thương mại tốt với Mỹ, nhất là vừa qua, hai bên đã nâng cấp lên quan hệ “Đối tác chiến lược toàn diện”, trở thành thị trường tiềm năng được các doanh nghiệp Trung Quốc tìm kiếm mở rộng cơ hội. Do đó, Việt Nam cũng cần lưu ý đến hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp FDI Trung Quốc, tránh để Việt Nam ở thành điểm đến để các doanh nghiệp Trung Quốc làm bàn đạp, gian lận xuất xứ để xuất khẩu sang Mỹ, làm ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam và quan hệ hợp tác Việt - Mỹ.

Trong lĩnh vực thương mại: Việt Nam phải nỗ lực nâng cao chất lượng Thương mại với Trung Quốc. Cụ thể, Việt Nam cần chú trọng cải thiện cán cân thương mại Việt-Trung. Để giảm bớt thâm hụt thương mại, Việt Nam cần cố gắng đẩy mạnh  xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, đặc biệt là những mặt hàng Việt Nam có ưu thế.

Thị trường Trung Quốc không còn dễ tính mà đang hướng tới các tiêu chuẩn cao, đặc biệt là trong sản phẩm nông nghiệp. Việt Nam cần chủ động nghiên cứu kỹ thông tin, tín hiệu và các quy định, tiêu chuẩn của thị trường, tuân thủ đầy đủ các điều kiện về đăng ký doanh nghiệp, các tiêu chuẩn chất lượng, kiểm nghiệm kiểm dịch, bao bì đóng gói, truy xuất nguồn gốc… từ đó chủ động nâng cao chất lượng sản phẩm, đón đầu các quy định để nâng cao hiệu quả xuất khẩu sản phẩm.

Đồng thời, các cơ quan chính phủ cũng cần tích cực đàm phán, tháo gỡ những khó khăn cùng với chính quyền Trung Quốc, hạn chế việc ùn tắc hàng hóa ở cửa khẩu biên giới Việt-Trung. Chẳng hạn đối với các sản phẩm nông nghiệp, Việt Nam cần tăng cường đàm phán với nước bạn để ký kết sớm những quy định chung về kiểm dịch động thực vật, từ đó chuẩn hóa các sản phẩm có thế mạnh của Việt Nam, hạn chế tình trạng bị từ chối do không đáp ứng được tiêu chuẩn của thị trường.

Áp lực cạnh tranh tại thị trường Trung Quốc ngày càng lớn khi có nhiều nước cũng tập trung khai thác thị trường quan trọng này. Do đó, các cơ quan quản lý, các doanh nghiệp cần nắm bắt rõ thông tin, triển khai đồng bộ các giải pháp để hàng hóa xuất khẩu thuận lợi; trong đó cần quan tâm ưu tiên hàng đầu tới nâng cao chất lượng sản phẩm và chú trọng chuyển đổi xuất khẩu từ hình thức tiểu ngạch sang chính ngạch. Đây là xu thế tất yếu, đòi hỏi các nhà sản xuất và xuất khẩu hàng hóa bắt buộc phải thay đổi và thích ứng.

Đối với nhập khẩu, Việt Nam phải tăng cường kiểm soát chất lượng hàng hóa, đặc biệt là thực phẩm, tránh để hàng hóa chất lượng thấp, thực phẩm không an toàn tràn lan vào thị trường. Đồng thời, hàng hóa Trung Quốc với mẫu mã đa dạng, bắt mắt và giá rẻ sẽ là đối thủ cạnh tranh với hàng hóa sản xuất trong nước. Việt Nam cũng cần có những biện pháp cân bằng giữa việc gia tăng thương mại với Trung Quốc và bảo hộ sự phát triển của các doanh nghiệp nội địa. Hơn nữa, trong bối cảnh Việt Nam đang theo đuổi chiến lược phát triển nền kinh tế chất lượng cao và bền vững, đòi hỏi chất lượng hàng hóa phải càng ngày càng có chất lượng cao, hạn chế phụ thuộc nguồn nguyên liệu từ nước ngoài. Việc gia tăng kiểm soát chất lượng trong nhập khẩu nguyên vật liệu cho sản xuất là quan trọng và cần thiết.

Trong thời đại cách mạng công nghệ 4.0 phát triển nhanh chóng và xu hướng số hóa các ngành kinh tế ngày càng phổ biển, Việt Nam cũng cần đẩy mạnh hợp tác thương mại điện tử xuyên biên giới với Trung Quốc. Trung Quốc là một quốc gia phát triển mạnh về thương mại điện tử và thanh toán trực tuyến, thông qua hợp tác thương mại điện tử xuyên biên giới, Việt Nam có thể học hỏi được những kinh nghiệm đồng thời thúc đẩy hợp tác tài chính số, giúp phát triển các giải pháp thanh toán trực tuyến và nâng cao công nghệ tài chính của Việt Nam./.

Lương Thanh Hải

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT